Thứ Tư, 29 tháng 8, 2018

Một số câu nói nổi tiếng của tướng Mc Arthur



Một số câu nói nổi tiếng của tướng 5 sao Douglas Mac Arthur (1860 – 1964), ông là một danh tướng của Hoa Kỳ


• Người lính là người cầu nguyện cho hòa bình nhiều hơn bất cứ ai, bởi chính người lính là người phải chịu đựng và mang những vết thương và sẹo chiến tranh nặng nề nhất.
The soldier above all others prays for peace, for it is the soldier who must suffer and bear the deepest wounds and scars of war.

• Chỉ những người không sợ chết là đáng sống.
Only those are fit to live who are not afraid to die.

• Thế giới là mưu đồ triền miên chống lại kẻ can trường. Đó là cuộc vật lộn từ xa xưa: một bên là tiếng gào thét của đám đông, và bên kia là tiếng của lương tâm bạn.
The world is in a constant conspiracy against the brave. It's the age-old struggle: the roar of the crowd on the one side, and the voice of your conscience on the other.

• Tai họa chết người khi bước vào bất cứ cuộc chiến nào mà không có ý định chiến thắng.
It is fatal to enter any war without the will to win it.

• Trên trái đất này không có sự bảo đảm; chỉ có cơ hội.
There is no security on this earth; there is only opportunity.

• Chúng ta không rút lui - chúng ta đang tiến lên theo hướng khác.
We are not retreating - we are advancing in another direction.

• Đừng bao giờ ra thứ mệnh lệnh không thể phục tùng.
Never give an order that can't be obeyed.





Thứ Tư, 22 tháng 8, 2018

Tình mẹ


TÌNH MẸ


Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ
Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân
Mai sau, dù con lớn lên, con trưởng thành nhưng đối với mẹ con mãi là một đứa trẻ thơ dại. Mẹ sẽ dùng cả cuộc đời để bảo vệ con, đem đến cho con sự bình yên và hạnh phúc. Với mẹ, con luôn là sự quan tâm và lo lắng, con luôn là trên hết. Dù bây giờ hay mai sau vẫn luôn và vẫn luôn là như thế.
Dù con có ở bất cứ đâu trên trái đất rộng lớn này thì lòng mẹ vẫn theo con. Mẹ sẽ luôn dõi theo từng chặng đường con đi, che chở và bảo vệ con trước sóng gió cuộc đời. Con dù lớn vẫn là con của mẹ, đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con.
Tình mẹ cao quý và đáng trân trọng hơn mọi thứ trên đời.


CON CÒ

1962  Chế Lan Viên

I
Con còn bế trên tay
Con chưa biết con cò
Nhưng trong lời mẹ hát
Có cánh cò đang bay:

"Con cò bay la
Con cò bay lả
Con cò Cổng Phủ
Con cò Đồng Đăng..."

Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn
Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ

"Con cò ăn đêm
Con cò xa tổ
Cò gặp cành mềm
Cò sợ xáo măng..."

Ngủ yên, ngủ yên, cò ơi, chớ sợ
Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân
Con chưa biết con cò con vạc
Con chưa biết những cành mềm mẹ hát
Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân

II

Ngủ yên, ngủ yên, ngủ yên
Cho cò trắng đến làm quen
Cò đứng ở quanh nôi
Rồi cò vào trong tổ
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi

Mai khôn lớn, con theo cò đi học
Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân
Lớn lên, lớn lên, lớn lên...
Con làm gì?
Con làm thi sĩ
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà
Và trong hơi mát câu văn

III

Dù ở gần con
Dù ở xa con
Lên rừng xuống bể
Cò sẽ tìm con
Cò mãi yêu con
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con

À ơi!
Một con cò thôi
Con cò mẹ hát
Cũng là cuộc đời
Vỗ cánh qua nôi
Ngủ đi, ngủ đi!
Cho cánh cò, cánh vạc
Cho cả sắc trời
Đến hát
Quanh nôi

Chế Lan Viên( 1920- 1989) Là nhà thơ xuất sắc của nền thơ hiện đại Việt Nam.



Thứ Ba, 21 tháng 8, 2018

Vua Duy Tân vị hoàng đế thứ 11 của triều Nguyễn

“Duy Tân” – có lẽ ngay từ cái tên của vị vua này, chúng ta đã có thể cảm nhận được luồng tư tưởng mới mẻ, lối tư duy cách tân. Cái tên này đã cùng ông trải qua đời vua và kiếp người như thế nào? Tại sao Duy Tân được đánh giá là một những ông vua yêu nước của triều Nguyễn thời mạt kì?

Vua Duy Tân, tên húy là Nguyễn Phúc Vĩnh San, sinh vào năm 1900 tại kinh thành Huế, ông là vị vua thứ 11 của triều đại nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam. Ông là hoàng nam thứ 8 của vua Thành Thái và bà hoàng phi Nguyễn Thị Định.
Khi vua cha Thành Thái bị đưa đi lưu đày, thực dân Pháp quyết định chọn một người con của Thành Thái để nối ngôi. Theo quy định tự cổ chí kim của Hoàng tộc, người kế vị vua cha sẽ là con trai trưởng. Tuy nhiên, ủ sẵn âm mưu thao túng, thực dân Pháp muốn chọn một vị “ấu đế” để dễ bề giật dây.
Khi Khâm sứ Lévecque cầm danh sách các Hoàng tử vào Hoàng cung chọn người nối ngôi Thành Thái, trong lúc điểm danh thì thiếu mất Vĩnh San.
Triều đình hốt hoảng tìm kiếm thì thấy Vĩnh San đang chui dưới gầm giường bắt dế. Vĩnh San bị lôi ra, mặt mày lem luốc, quần áo ướt nhẹp. Không kịp đưa về nhà tắm rửa, bọn thị vệ đưa ngay hoàng tử nhỏ ra trình diện quan Pháp. Chính ấn tượng này khiến Pháp nghĩ rằng Vĩnh San nhút nhát và đần độn, có thể làm tay sai đắc lực. Pháp quyết định chọn Vĩnh San làm vua khi mới 7 tuổi. Do còn nhỏ nên triều đình xin tăng thêm một tuổi thành 8.
Ngày 5 tháng 9 năm 1907, Vĩnh San đăng cơ. Triều đình cũng đặt niên hiệu cho Vĩnh San là Duy Tân, như muốn hướng tới thành toàn sự nghiệp không thành của vua Thành Thái.
Tuổi đời còn trẻ nhưng vua Duy Tân lại vô cùng cương nghị, chống Pháp quyết liệt. Có lần, ngồi câu trước bến Phu Văn Lâu, vua ra vế đối với Nguyễn Hữu Bài (vừa là thầy, vừa là một trong 6 phụ chính Pháp lập ra để kiểm soát vua):
“Ngồi trên nước không ngăn được nước, trót buông câu nên lỡ phải lần”.
Nguyễn Hữu Bài đáp lại:
“Nghĩ việc đời mà ngán cho đời, đành nhắm mắt đến đâu hay đó”.
Mặt đượm buồn, vua nói: Hóa ra thầy là người bó tay cam chịu trước số mạng. Theo ý trẫm, sống như thế thì buồn lắm. Phải có ý chí vượt qua gian khổ, khó khăn tiến lên thì mới sống có ý nghĩa.
Ngày 6/5/1916, kế hoạch bàn mưu khởi nghĩa đánh Pháp không may bị lộ vua Duy Tân cùng nhiều chiến sĩ cứu nước khác đã bị thực dân bao vây và bắt giữ tại một ngôi chùa ở Quảng Ngãi. Dù Pháp dùng những lời đường mật, vua vẫn nhất định không theo giặc trở về. Khi toàn quyền Pháp ở Hà Nội đích thân ra gặp và dụ dỗ, vua vẫn kiên định trả lời: “Các ngài muốn buộc tôi làm vua nước Nam, thì hãy coi tôi là một ông vua trưởng thành và có quyền tự do hành động, nhất là quyền tự do trao đổi thư tín và chính kiến với chính phủ Pháp”.
Sau một tuần bị giam ở đồn Mang Cá và gặp những thuyết khách của triều Nguyễn, không thay đổi chính kiến, vua Duy Tân bị mang án lưu đày sang đảo Réunion. Theo vua đi đày có Hoàng mẫu Nguyễn Thị Định, Hoàng quý phi Mai Thị Vàng và em ruột Mệ Cưởi mới 12 tuổi. Các chí sĩ Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu đều bị xử chém.
Lưu đày ở đảo La Réunion
Ngày 3 tháng 11 năm 1916, gia đình vua Thành Thái và Duy Tân lên tàu Guadiana ở Cap Saint-Jacques. Đến ngày 20 tháng 11 họ tới bến Pointe de Galets đảo La Réunion lúc 7 giờ rưỡi sáng. Tại đây, ông từ chối một biệt thự sang trọng người Pháp dành cho, gia đình cựu hoàng sống trong một căn nhà thuê lại một người dân ở thành phố Saint-Denis. Ông sống giản dị trong căn nhà nhỏ, ăn mặc và sinh hoạt cũng giản dị như bao người dân bình thường khác ở đảo.
Duy Tân bất bình với cha Thành Thái vì không hợp tính tình, ông cắt đứt liên lạc với gia đình. Duy Tân ghi tên học về vô tuyến điện và mở tiệm Radio – Laboratoire bán hàng sửa chữa máy. Đồng thời, ông thi tú tài ở trường trung học Leconte de Lisle và học thêm ngoại ngữ, luật học.
Duy Tân ít quan hệ với người Pháp, chỉ giao du với một nhóm bạn bè. Ông tham gia hội yêu nhạc, học cưỡi ngựa và thắng nhiều cuộc đua. Cựu hoàng Duy Tân còn viết nhiều bài và thơ đăng trong những tờ báo Le Peuple (Dân chúng), Le Progrès (Tiến bộ) dưới biệt hiệu Georges Dry. Bài Variations sur une lyre briée (Những biến tấu của một cây đàn lia gãy vỡ) được giải nhất văn chương của Viện Hàn lâm Khoa học và Văn chương La Réunion năm 1924. Duy Tân còn là hội viên của Hội Tam Điểm, Franc-Macon và Hội địa phương bảo vệ Nhân quyền và quyền Công dân.
Trong Thế chiến II (1939 – 1945), vua Duy Tân tình nguyện gia nhập quân đội của “nước Pháp tự do”. Chiến thắng thuộc về phe Đồng minh, ông được giải ngũ với hàm thiếu tá không quân.
Ngày 18 tháng 6 năm 1940, Charles de Gaulle kêu gọi chống Đức quốc xã. Sự việc nước Pháp bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đầu hàng phát xít Đức và sau đó lực lượng kháng chiến Pháp ở hải ngoại do De Gaulle đứng đầu được thành lập ở Anh trở về tái chiếm đất Pháp đã có tác động rất lớn đến tư tưởng, tình cảm của Cựu hoàng. Ông xem De Gaulle là thần tượng, là hình mẫu cho hoạt động cứu nước của mình.
Tuy “nước Pháp tự do” và nước Pháp thực dân mà ông chống đối đều là một nước Pháp, Duy Tân hưởng ứng và bằng đài vô tuyến điện, ông đã thu thập tin tức bên ngoài để chuyển cho Lực lượng kháng chiến tự do Pháp. Vụ việc đổ bể, ông bị nhà cầm quyền La Réunion (lúc đó theo Chính phủ Vichy) câu lưu sáu tuần. Sau đó, ông phục vụ ba tháng với cấp bậc hạ sĩ vô tuyến trong phe kháng chiến của tướng Legentilhomme và đại tá Alain de Boissieu. Bị giải ngũ vì lý do sức khoẻ, Duy Tân nhờ thống đốc La Réunion là A. Capagory (1942 – 1947) can thiệp cho ông đăng vào bộ binh Pháp dưới quyền của tướng Catroux với cấp bậc binh nhì. Một thời gian sau ông được thăng lên chuẩn úy rồi sang châu Âu.
Ngày 5 tháng 5 năm 1945, có lệnh đưa chuẩn úy Duy Tân về phòng Quân sự của tướng Charles de Gaulle ở Paris. Duy Tân đến Pháp vào tháng 6 năm 1945 thì Đức đã đầu hàng ngày 8 tháng 5. Ngày 20 tháng 7 năm 1945, ông được đưa qua phục vụ tại Bộ tham mưu của Sư đoàn 9 Bộ binh Thuộc địa (9ème DIC) đóng ở Forêt Noire, Đức.
Ngày 29 tháng 10 năm 1945, Charles de Gaulle ký một sắc lệnh hợp thức hoá những sự thăng cấp liên tiếp của Duy Tân trong Quân đội Pháp: thiếu uý từ 5 tháng 12 năm 1942,trung uý từ 5 tháng 12 năm 1943, đại uý tháng 12 năm 1944 và thiếu tá ngày 25 tháng 9 năm 1945. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng cựu hoàng Duy Tân đã bị dùng như một con bài chính trị trong kế hoạch mật tái chiếm Đông Dương của Pháp.
Qua đời sau vụ rơi máy bay
Ngày 24 tháng 12 năm 1945, Duy Tân lấy phi cơ Lockheed C-60 của Pháp cất cánh từ Bourget, Paris để trở về La Réunion thăm gia đình trước khi thi hành sứ mạng mới. Lúc 13 giờ 50, phi cơ rời Fort Lami để bay đến Bangui, trạm kế tiếp. Ngày 26 tháng 12 năm 1945, khoảng 18 giờ 30 GMT, máy bay rớt gần làng Bassako, thuộc phân khu M’Baiki, Cộng hoà Trung Phi. Tất cả phi hành đoàn đều thiệt mạng, gồm có một thiếu tá hoa tiêu, hai trung uý phụ tá, hai quân nhân trong đó có cựu hoàng Vĩnh San và bốn thường dân.
Theo nhiều người đây có thể là một vụ mưu sát. Việc vua Duy Tân trở lại Việt Nam sẽ gây khó khăn cho Anh trong việc trao trả các thuộc địa.
Ngày 28 tháng 3 năm 1987, hài cốt của vua Duy Tân được gia đình đưa từ M’Baiki, Trung Phi về Paris làm lễ cầu siêu tại Viện Quốc tế Phật học Vincennes và sau đó đưa về an táng tại An Lăng, Huế, cạnh nơi an nghỉ của vua cha Thành Thái, vào ngày 6 tháng 4 năm 1987.
Hôn nhân
Vua Duy Tân có 4 người vợ. Người vợ chính là bà Hoàng quý phi Mai Thị Vàng. Lúc theo chồng lưu đày, bà đã có mang 3 tháng và bị sảy. Sau hai năm, do không hợp thủy thổ, đau ốm liên miên nên bà cùng mẹ và em vua cùng trở về nước. Năm 1925, Duy Tân đã gửi thư kèm giấy ly hôn cho Hội đồng dân tộc để bà Mai Thị Vàng đi lấy chồng khác, nhưng người phụ nữ 27 tuổi vẫn thủ tiết với chồng.
Sau khi ly dị, vua kết hôn với một người phụ nữ địa phương, từ 1929 đến 1939, sinh được 4 con, 3 trai và 1 gái. Rồi không rõ người vợ này đã chết hay hôn nhân tan vỡ, cựu hoàng tiếp tục lấy một người phụ nữ khác, hạ sinh một người con gái.
Tháng 10 năm 1945, Duy Tân chấp thuận lời đề nghị của Tổng thống Pháp Charles de Gaulle trở về Việt Nam, nhưng bị tai nạn máy bay và qua đời trên đường đi thăm vợ con ở đảo Réunion. Sự kiện này chính thức kết thúc cuộc đời của vị vua yêu nước triều Nguyễn.
Sau khi vua Duy Tân chết ở trung phi, thi hài của ông được chôn cất ở đó. Năm 1987 hài cốt nhà vua được cải táng từ trung phi đưa về chôn cạnh mộ vua Thành Thái ở An Lăng.
Nguồn Lịch sử Việt Nam
Ảnh : 1. Vua Duy Tân (Nguyễn Phúc Vĩnh San)

2. vua Duy Tân năm 1907. Bức hoành sau lưng ghi bốn chữ “Tiên cấm trường xuân”


Thứ Sáu, 17 tháng 8, 2018

Bốn bà vợ của nhà vua


Ngày xửa ngày xưa, có một vị vua giàu có trị vì một vương quốc hùng mạnh. Ông có đến bốn người vợ, bà hoàng nào cũng xinh đẹp. Nhà vua yêu người vợ thứ tư nhất và luôn chiều theo mọi sở thích của bà, không bao giờ từ chối. Kế đến là người vợ thứ ba, nhà vua lúc nào cũng sợ mất bà, đi đâu cũng luôn muốn đưa bà đi theo. Bà vợ thứ hai là chỗ dựa tinh thần của nhà vua, bà rất tử tế, dịu dàng và kiên nhẫn. Mỗi khi nhà vua gặp chuyện khó khăn, ông thường tâm sự với bà và thường nhận được những lời khuyên quý giá. Người vợ thứ nhất của vua là người trung thành nhất, giúp vua trị vì và làm cho đất nước ngày càng giàu có nhưng nhà vua lại không dành nhiều tình cảm cho bà. Nhà vua luôn nghĩ rằng bà có thể tự chăm sóc lấy mình nên ít khi để ý đến bà.

Không may, một ngày nọ vua lâm bệnh và biết rằng mình không còn sống được bao lâu nữa. Ông nghĩ: “Ta có đến bốn người vợ, nhưng khi ra đi, e rằng lại hoàn toàn cô đơn!”.

Nghĩ vậy, nhà vua gọi người vợ thứ tư đến bên cạnh và nói: “Ta yêu thương nàng nhất, luôn dành mọi thứ tốt đẹp cho nàng. Giờ đây ta sắp chết, nàng có nguyện đi theo ta không?”. Nhà vua nhận được câu trả lời: “Bệ hạ rất tốt với thiếp, nhưng yêu cầu đó quá khó, thiếp không thể làm được!”.

Nhà vua lặng đi một lúc rồi cho gọi người vợ thứ ba, bà trả lời: “Không, thưa đức vua, cuộc sống còn đẹp lắm, sẽ có một vị vua khác đến để tiếp tục che chở và chiều chuộng thiếp!”. Trái tim vị vua cảm thấy lạnh buốt vì buồn bã và thất vọng.

Ngài lại gọi người vợ thứ hai: “Ta luôn được nàng giúp đỡ và khuyên giải, nàng sẽ theo ta chứ?”- Nhà vua hỏi. “Lần này thiếp không thể giúp được gì hơn, thưa đức vua”- người vợ thứ hai đáp- “Nhưng thiếp hứa sẽ chăm sóc bệ hạ đến những giây cuối cùng, rồi sẽ đưa bệ hạ đến nơi yên nghỉ và sẽ luôn nhớ đến bệ hạ!”. Nhà vua hoàn toàn tuyệt vọng.

Nhà vua không hề nhớ ra người vợ thứ nhất, cho đến khi ngài nghe thấy một giọng nói cất lên bên cạnh: “Thiếp sẽ theo ngài đến bất cứ nơi đâu ngài đi tới, dù đó là cõi chết”. Đó chính là người vợ thứ nhất của ông. Trông bà mệt mỏi và gầy yếu. Buồn bã và nuối tiếc vô hạn vì cách đối xử của mình, nhà vua thốt lên: “Lẽ ra ta đã phải chăm sóc và thương yêu nàng nhiều hơn mới phải!”.

Chúng ta không sống trong thế giới cổ tích, nhưng bạn biết không, nếu coi mỗi chúng ta cũng giống như nhà vua đó, thì bạn hãy để ý xem, mỗi chúng ta cũng có đến bốn “người vợ” đấy.

“Người vợ” thứ tư của chúng ta là cơ thể. Hầu như ai cũng lo lắng, chăm sóc đến bản thân, đến cơ thể mình nhiều nhất, làm sao để trông thật đẹp đẽ. Nhưng khi chúng ta ra đi, cơ thể ấy cũng tan biến, không để lại gì trên đời.

“Người vợ” thứ ba có tên là “địa vị và của cải” – đây chính là những thứ dễ mất nhất, vì dù sao chúng cũng chỉ là vật chất. Khi chúng ta không còn sống, “địa vị” không còn và “của cải” sẽ thuộc về người khác.

“Người vợ” thứ hai là gia đình và bè bạn. Họ luôn quan tâm và giúp đỡ, luôn an ủi và khuyên giải, nhưng họ chỉ có thể chăm sóc ta đến những phút cuối cùng và nhớ thương ta.

“Người vợ” thứ nhất chính là TÂM HỒN. Không phải ai cũng nhớ đến nó khi sống trong một thế giới mọi người đều phải chạy đua với của cải, địa vị để thỏa mãn cho cái “tôi” của mình. Thế nhưng TÂM HỒN là điều duy nhất luôn đi cùng với chúng ta đến bất cứ nơi nào chúng ta đến, và chính là thứ để mọi người nhớ mãi đến ta dù ta có ở nơi nào.

Vậy thì bạn thân yêu, hãy chăm sóc và yêu thương tâm hồn của mình nhiều nhất! Đừng để phải hối hận vì đã lãng quên nó như vị vua trong truyện kia,



Chủ Nhật, 12 tháng 8, 2018

4 kỹ năng cần thiêt cho mọi phương pháp tự học


Tự học không những sẽ giúp các bạn học sinh không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả học tập khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà suốt cả cuộc đời.
Tự học giúp cho rèn luyện được tính tự lập, ít phụ thuộc vào người khác, đặc biệt là các thầy cô.
Tự học giúp luyện tính kỷ luật cả khi học trên lớp cũng như lúc tự học. Khi học sẽ tập trung cao độ, không để phân tâm..
1. Kỹ năng kế hoạch hóa về phương pháp tự học.
Trước hết người học phải có một kế hoạch học tập thật khoa học, xác định được khối kiến thức cần phải trau dồi, phân bổ thời gian cho từng loại kiến thức cụ thể nếu không thì sẽ lãng phí thời gian cho một mớ kiến thức hỗn độn trong đầu.
2. Kỹ năng nghe và ghi bài trên lớp.
Phương pháp tự học qua kỹ năng nghe và ghi bài không chỉ là nghe các bài giảng thầy cô dạy trên lớp mà quy trình nghe giảng bao gồm có các khâu như ôn bài cũ, làm quen với bài sắp học, hình dung các câu hỏi đối với bài mới. Cần lưu ý cách ghi bài khi nghe giảng, ghi một cách chọn lọc, sử dụng kí hiệu riêng, ghi cả chính đề lẫn phản đề, ghi thắc mắc của chính mình.
3. Kỹ năng ôn tập trong phương pháp tự học.
Việc tái hiện bài giảng dựa vào những biểu tượng, khái niệm, phán đoán được ghi nhận từ bài giảng của thầy, từ hoạt động tái nhận bài giảng, dựng lại bài giảng của thầy bằng ngôn ngữ của chính mình, đó là những mối liên hệ logic có thể có cả kiến thức cũ và kiến thức mới.
4. Kỹ năng đọc sách và tìm kiếm tài liệu.
người đọc giỏi không đơn giản chỉ là vấn đề phát triển kỹ năng và phương pháp đọc sách. đọc giỏi cần học cách chắt lọc thông tin hiệu quả từ những gì đã đọc, đồng thời học cách giao tiếp một cách sáng tạo và phê bình với quyển sách.
Sự lựa chọn và phân loại sách, báo cần đọc sẽ giúp cho người đọc vừa tiết kiệm thời gian vừa tìm kiếm đúng sách phục vụ nhanh chóng cho mục đích đọc.
Trên đây là những kỷ năng được giới thiệu rất ngắn gọn, các bạn có thể tham khảo  để vận dụng.

Trí thức ngày nay và kẻ sĩ ngày xưa

Thời nay, có nhiều người bằng nào cũng lấy, hội nào cũng vào, ghế nào cũng ngồi, chức danh nào cũng đạt, song không hề có một phát minh, phát kiến nào mới mẽ cho nhân quần xã hội nhích thêm một bước nào.

Kẻ sĩ ngày xưa là người quân tử có vai trò định quốc an dân. Họ luôn quan tâm đến nhân tâm thế đạo, sự hưng vong của đất nước. Dù xuất hay xử, ra làm quan hay lui về ẩn dật vẫn một niềm ưu ái đối với dân, với nước.

Cái học ngày xưa khác cái học ngày nay, không những về nội dung mà còn về phương pháp học. Sách Trung Dung dành riêng một phần quan trọng bàn về phương pháp học tập của Nho sĩ ngày xưa. Phương pháp này đại loại tóm gọn trong mấy từ sau :

Bác học (người đi học phải học cho giỏi)
Thẩm vấn (hỏi thì hỏi cho kỹ);
Thận tư (suy nghĩ thì suy nghĩ cho cẩn thận);
Minh biện (biện luận cho rõ ràng);
Đốc hành (cố tâm thực hành điều mình biết).

Học thì phải học cho thật giỏi, nghĩ thì phải nghĩ cho ra lẽ, hỏi thì phải hỏi cho biết mới thôi, làm thì phải làm cho hết sức mình. Ngoài ra phải khiêm tốn, thật thà, không giấu dốt, không nói những điều mình không biết rõ (biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, ấy là biết vậy - Khổng Tử).

Kẻ sĩ xưa và trí thức nay đều là sản phẩm của một nền giáo dục. Trí thức ngày nay vẫn còn giữ được địa vị tinh thần của kẻ sĩ ngày xưa. Muôn đời, trí thức vẫn là người cầm bó đuốc tinh thần của nhân loại, giữ vai trò lãnh đạo tinh thần của một dân tộc. Trong một xã hội nặng mùi vật chất, đồng tiền là vạn năng, giá trị tinh thần thuộc về thứ yếu, đời sống tâm linh nghèo nàn, tình người đắt đỏ hiếm hoi...thì địa vị tinh thần của người trí thức cần được đề cao, coi trọng hơn bao giờ hết. Quốc gia, dân tộc hưng thịnh hay suy vong thì người thất học cũng phải có trách nhiệm huống chi là người có học (quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách).

Chân trí thức bao giờ cũng vừa tỉnh thức vừa đánh thức xã hội, định hướng xã hội, dẫn dắt quần chúng hướng về Chân-Thiện-Mỹ. 


Ảnh : GS Lê Văn Lan là một học giả uyên bác, nhiệt tình, cởi mở, có nhiều ý kiến sắc sảo là một trong những người sáng lập Viện sử học Việt Nam. Ông có câu nói hay : Lịch sử là khoa học, không phải là công cụ giáo dục tư tưởng.

Thứ Hai, 6 tháng 8, 2018

Tự học

Kỹ năng quan trọng nhất của người thành công: Tự học

Học sinh, sinh viên...nhiệm vụ chính thời đi học là HỌC. Nếu ấp ủ du học thì tìm cách đi cho được.

Nếu các bạn đọc chia sẻ của tất cả những người được gọi là thành công trên thế giới, trong mọi lĩnh vực họ theo đuổi, thì bí quyết thành công duy nhất của họ nằm ở khả năng TỰ HỌC.
Khả năng tự học sẽ giúp một người có cái họ mong muốn. Thầy cô, phương tiện, điều kiện...chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong sự thành công của một con người.
Thế giới bây giờ, họ đã chuyển từ phương pháp giáo dục "truyền thụ kiến thức" sang phương pháp "hướng dẫn cách tự học". Còn tự học được hay không là hoàn toàn phụ thuộc vô người đó. Khi người đó muốn, muốn kinh khủng,... thì họ sẽ tự kỷ luật, tự tìm tòi, tự khống chế thú vui bản thân, tự dung nạp vô đầu cái họ mong muốn.
Kết quả của mọi học sinh sinh viên có thành tích tốt, có kỳ tích hoặc thành tựu...đều nằm ở chỗ tự học. Các bạn nhà có điều kiện, học thêm nhiều, cha mẹ theo sát việc học,... đều dừng lại ở mức độ làng nhàng, kha khá,... chứ không nổi bật được vì không có khả năng tự học. Và đầu óc cũng tầm tầm bậc trung mới đi học thêm và phụ thuộc người khác.
Chưa ai được học bổng du học mà do cha mẹ thầy cô nộp đơn giùm, viết luận giùm hay đu theo nhắc nhở. Người cho học bổng sẽ phỏng vấn trực tiếp để xem, lúc đó thì mọi sự thực đều phải LÒI ra. Nên nhớ điều đó để không tốn thời gian nếu con cái hay học trò mình không có tư chất.
Cái duy nhất người trẻ cần là thông tin, mình có thông tin thì chia sẻ cho chúng nó. Người có năng lực, họ khắc biết sẽ làm gì tiếp theo.
Còn đứa thuộc thể loại chậm hiểu thì thôi, đọc cho vui, hào hứng 1 phút, ước muốn, thích thú... nhưng rồi xong, vẫn như cũ. Hỏi sao không có thì nói không có điều kiện, không có thầy, không có tiền, không có x y và z. Đứa ngu hay nói mấy cái điều kiện bên ngoài vậy chứ không biết mọi thứ là do chính mình muốn là được.
Ra đời, đi làm cũng vậy. Người có khả năng tự học, có thể làm bất cứ lĩnh vực gì, công việc gì được giao phó. Hoặc tự nghĩ ra cách làm mới trong quá trình tự học mà có thành tựu.

Tấm bằng và ước mơ

Bằng cấp là quá trình hoàn thành một danh sách các tiêu chuẩn để đổi lấy một dấu hiệu xã hội.


Bằng cấp, giấy chứng nhận, hoặc huy hiệu để chứng minh bạn đã chơi đúng luật. Bằng cấp là ngắn hạn, chỉ trong 3-4 năm sau khi ra trường bằng cấp của bạn sẽ không có giá trị bằng thành tích làm việc.
Trong trường bạn có thể học nợ môn, nợ chứng chỉ. Trong cuộc sống, bạn chỉ nợ bản thân sự giáo dục. Trường học kéo dài vài năm. Trường đời kéo dài suốt đời.
Bằng cấp là độc quyền của nhà trường. Nhưng giáo dục thì không. Giáo dục của bạn là độc quyền của bạn. Bạn là thầy giáo của trí óc mình, là thuyền trưởng phiêu lưu khám phá trên đại dương kiến thức của đời mình.
Có những học giả tinh hoa tiêu biểu như Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Lê Văn Thiêm, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Khắc Viện … tiêu biểu là Tạ Quang Bửu (bộ trường đầu tiên của Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp) không có tấm bằng chính thức nào trong thời gian du học. Nhưng ông là một nhà khoa học thông kim bác cổ nhờ tự săn tìm kiến thức cả khoa học tự nhiên lẫn xã hội không mệt mỏi trong và cả ngoài những trường đại học ông “ghé qua”. Dấu ấn của ông như một trí thức thông tuệ cũng như trong cương vị bộ trưởng đại học nước nhà là không thể phai mờ.
Họ tự đạt được một tấm bằng đại học (của) cá nhân.  Đây là bằng đại học của hành động, của thực hành, của kết quả chứ không chỉ lý thuyết suông. Đây là bằng đại học được mọi người chứng nhận dựa trên kết quả và những giá trị thực sự họ mang lại.
Hài lòng với mảnh bằng đại học sau khi bước ra khỏi cổng trường sẽ tắt hết mọi ước mơ hoài bão của bạn.

Thứ Bảy, 4 tháng 8, 2018

MỤC LỤC BÀI ĐĂNG 2018 - 2013

( Cách tìm bài : Bạn nhấn Ctrl+F để mở cửa sổ và gõ từ cần tìm vào, bài cần tìm sẽ được đánh dấu và bạn chỉ cần nhấp chuột vào đó là có ngay bài cần đọc)




▼  tháng sáu (11)






▼  tháng mười một 












      tháng hai 
           tháng sáu 
                      tháng ba (1)