Chủ Nhật, 31 tháng 10, 2021

Câu chuyện về một con chó

 

CÂU CHUYỆN VỀ MỘT CON CHÓ

Trong một buổi gặp mặt vui vẻ khi mới sang học ở Trường Đảng Lêningrat. chị Nguyễn Thị Lài thầy Ivan Ivanôvic và cô giáo Anna Petrolôva. Trong lúc chuyện trò thầy Ivan hỏi cái tên Lài tiếng Việt nghĩa là gi? cô đáp: Tên tôi là tên một loài chó. Loài chó ở vùng núi cằn cỗi, khắc khổ. Chó lài to ngang với chó béc-giê của Châu Âu. Nhưng không ăn thịt. Không phải là không biết ăn… Mà chỉ ăn khoai, ăn sắn. Đẻ một lứa bốn, năm con. Nuôi rất khéo. Và trung thành với chủ hết lòng.

- Nhà tôi cũng nuôi một con chó lài. Đầu tiên nó là con chó của hàng xóm. Lài kể tiếp chuyện của mình - Một lần đi học về, tôi thấy ông hàng xóm treo nó lên để làm thịt. Con chó không kêu, không giẫy đạp. Chỉ có đôi mắt đen của nó ứa ra những giọt nước mắt rất to. Tôi hỏi tại sao lại làm vậy. Ông ta giải thích, nhà không có tiền đem nó ra chợ bán. Lần đầu nó trốn về được. Lần thứ hai đi chợ thật xa, nó cũng trốn về được. Lần thứ ba đem sang tận huyện khác, ấy vậy mà không hiểu bằng cách nào nó cũng trốn về được. Lần nào trốn về nó cũng vẫy đuôi một cách ngập ngừng như có vẻ hối lỗi. Thôi hóa kiếp cho nó. Không nhỡ người mua họ biết chó nhà mình trốn về, đến đòi tiền thì lấy đâu mà trả.

Nghe vậy, tôi quát lên: Thả nó xuống, ai đến bắt đền tôi trả thay. Miệng nói, tay tôi cởi sợi dây thừng thả con chó xuống. Và lôi trong cặp sách ra mười mấy đồng, tiền đoàn phí (tôi chả là bí thư đoàn trường mà) mới thu được chưa kịp nộp lên huyện. Tùy cháu thôi! Bây giờ con chó là của cháu. Ai đến bắt đền! Cháu phải chịu trách nhiệm.

Ấy vậy mà con chó nhất quyết không theo tôi về. Bị ông chủ đánh đuổi rất dữ, dần dần nó mới quen với chủ mới. Tuy nhiên, thi thoảng nó vẫn về nhà cũ, chui vào gầm giường ngủ một giấc… Hôm sau, mẹ tôi phải vào cót thóc lấy hai thúng ra chợ bán cho tôi bù vào tiền đoàn phí đã tiêu đó.

- Tôi đã nghe và đọc rất nhiều chuyện về chó. Thầy Ivan Ivanôvic đế vào. Phải nói chuyện nào cũng cảm động. Nhưng chuyện con chó của Lài phải nói là đặc biệt!

- Nó chết rồi! Nó chết để cứu chúng tôi! Giọng Lài đầy xúc động, đôi mắt đen đã ngấn nước mắt.

- Nó chết thế nào? Lài từ từ bình tĩnh kể cho chúng tôi nghe đi! Thầy Ivan Ivanôvic cảm thấy bất ngờ, giọng có phần cầu khẩn.

- Bắt đầu lại từ đâu nhỉ? Lài tự hỏi mình. À, nó bắt đầu về nhà chúng tôi. Tuy nhiên vẫn không quên qua lại nhà chủ cũ, mặc dù đã định giết thịt nó. Loài chó hiểu hết, có điều nó không biết nói ra thôi. Con chó này mắn đẻ lắm, mỗi năm hai lứa. Mỗi lứa có tới bốn, năm con. Nó chăm con khéo lắm. Không bao giờ nằm đè lên con. Khổ, dân ở vùng núi chúng tôi nghèo lắm. Cơm cũng chẳng đủ ăn, nói gì đến việc cho chó. Những chú cún con cứ day hàng vú chó mẹ như rút ruột nó ra. Nhìn nó gầy xơ xác với hai hàng vú tong teo mà xót cả ruột. Bởi thế, chó con biết ăn cơm là mẹ tôi đem ra chợ bán. Con nào to khỏe hơn là mẹ tôi bán trước. Loài chó này thương con nó lắm! Người lạ động vào dù chết nó cũng quyết bảo vệ đến cùng…

Nhưng với mẹ tôi, khi cho con nó vào cái làn mây, nó biết cả đấy! Nhưng chỉ im lặng, thở dài não ruột. Dường như nó hiểu được thân phận làm chó của nó. Trước khi cho cún con vào làn mây, mẹ tôi thường nhắc hai chân trước cún con làm động tác lạy mẹ nó và bảo: “Con lạy mẹ! Con đi!”. Đứng ngoài thấy cảnh ấy tôi cũng ứa nước mắt.

Ngày anh Trọng làm lễ cưới tôi, mọi người bận rộn… chạy ra chạy vào. Riêng nó nằm ở góc nhà, cứ thở dài thườn thượt. Khi nhà trai đến đón dâu, nó cắn vào gấu quần tôi kéo lại.

Trích từ chuyện ngắn - con chó: laodong.vn

Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông gặp lại người xưa


GẶP LẠI NGƯỜI CON GÁI KHIẾN HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG CHOÁNG VÁNG, GIẬT MÌNH NHƯ TỈNH GIẤC MƠ


Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720 – 1791) quê ở làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, Hải Dương (nay là huyện Mỹ Văn, Hưng Yên) nhưng ông về quê mẹ là làng Tình Diệm, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh sinh sống bằng nghề bốc thuốc ngay từ khi còn trẻ. Ông lấy hiệu là Lãn Ông, tức ông già lười.

 

Tuy nhiên, ông chỉ lười công danh, lười đua chen ở chốn quan trường, còn sự nghiệp y học thì ông rất chăm chỉ nghiên cứu và trở thành danh y bậc nhất thời bấy giờ. Ông có bộ sách y học đồ sộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 65 quyển đúc kết kinh nghiệm 40 năm bốc thuốc chữa bệnh cứu người, một bộ sách y học lớn nhất nước ta từ trước tới nay.

 

Cũng vì tiếng tăm của ông vang dội đến tận Kinh đô mà năm 1781 chúa Trịnh Sâm triệu ông ra Thăng Long để chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán.

 

Trong chuyến lên Kinh lần này, Hải Thượng Lãn Ông tình cờ gặp lại người xưa, trong một trường hợp rất đặc biệt. Nguyên do là, khi còn nhỏ ở nhà, Lê Hữu Trác đã được bố mẹ hỏi cho một cô gái con nhà quan làm vợ. Các thủ tục dạm hỏi đã hoàn tất, chỉ chờ ngày cưới. Nhưng sau đó do gặp trắc trở, ông từ hôn rồi vào quê mẹ ở Hương Sơn (Hà Tĩnh) sinh sống.

 

Hải Thượng Lãn Ông nào có biết rằng, cô gái đó sau này không lấy ai nữa, vì cho rằng mình đã có nơi gá nghĩa rồi. Cô ở nhà chăm sóc cha mẹ. Khi cha mẹ mất, cô gửi thân vào chốn cửa thiền. Hơn 40 năm sau, bây giờ cô gái năm xưa đã trở thành một nhà sư già. Bà đi khuyến giáo thập phương để về đúc chuông chùa làng và rồi gặp ông ở Kinh thành.

 

Đến Kinh thành rồi, một ngày nọ, có hai lão sư ni đến chỗ Hải Thượng Lãn Ông ngụ, nói rằng: “Chùa Huê Cầu đúc chuông lớn, công quả chưa thành, chúng tôi đến đây khuyến hoá.”

 

Thế rồi một lão ni tự giới thiệu mình là trụ trì chùa núi An Tử, còn lão ni kia thì giới thiệu mình là con gái quan tả thừa ty Sơn Nam, quê ở Huê Cầu.

 

Lãn Ông nghe nói giật mình, sau đó ông tìm cách “hỏi nhỏ một tiểu cô trong bọn tòng hành mới biết đây là người cũ của mình”.

 

Rõ ràng một lão ni tìm đến một quan nhân (lúc này Lãn Ông đang làm quan thầy thuốc ở trong triều) để khuyến hoá mà lại xưng cái gốc tích của mình ra như thế, phải có lý do gì chứ. Vì người xuất gia vốn đã phải xa lánh bụi trần, đâu còn vấn vương đến gốc tích của mình. Và đúng vậy, chỉ mới nghe qua địa danh Sơn Nam, Huê Cầu thôi, đã đủ làm cho Lãn Ông choáng váng, “giật mình như tỉnh giấc mơ”.

 

Chuyện đúc chuông, khuyến hoá chẳng qua là cái cớ để người xưa có dịp gặp lại ông. Tuy biết khá rõ rồi, nhưng vốn thận trọng, Lãn Ông mới “trắc nghiệm” lại lần nữa, vì biết đâu chỉ là một sự tình cờ, ông bèn kể rõ họ tên quê quán…

 

Lãn Ông viết tiếp: “Lúc đó chỉ thấy ni cô chùa Huê Cầu mặt đỏ bừng, vẻ thẹn thùng, bảo sư bà trụ trì rằng: Thôi, chúng ta đi đi thôi”. Một lão ni nghiêm trang cẩn mật, tuổi tác già nua mà “mặt đỏ bừng, vẻ thẹn thùng” rồi phải hối thúc sư bà “đi đi thôi” trong một tâm trạng như là dỗi hờn thì thật là đáng kinh ngạc.

 

Lãn Ông rất lúng túng, tìm cách “lưu họ lại không được, mới mang ra một ít hương tiền để cúng” rồi hỏi: “Hai lão ni trọ tại nơi nào?” Họ đáp: “Chưa có nơi nào”, rồi vội vàng từ biệt ra đi. Lãn Ông đâu dễ chịu ngồi yên, ông “vội gọi một tên người nhà linh lợi bảo đi theo sau họ, mà không cho họ biết…”

 

Thế rồi Lãn Ông nhớ lại mối tình xưa. Lỗi tại ông. Ông đã nộp đủ lễ vấn danh, lễ nạp thái, vậy mà rồi vì một lý do riêng, ông hồi cư về Hương Sơn quê mẹ và xa luôn người vợ sắp cưới của mình để bà phải mỏi mòn trông đợi đến hôm nay mới bất ngờ gặp lại.

 

Rồi người thiếu phụ đó ra sao? Lãn Ông có dò hỏi thì biết bà “thề chung thân ở vậy”. Nhiều người đi hỏi cưới, bà cương quyết từ chối. Sau cùng, bà vào chùa tu.

 

Lãn Ông tự than rằng: Vì ta bất cẩn trong việc này. Có thuỷ mà không có chung, khiến cho người mang hận, mà ta mang tiếng là người bạc bẽo. Còn bà đã từ hôn nhiều người chỉ vì lòng chỉ có Lãn Ông thôi. Bà thà đi tu chớ không lấy ai khác nữa! có người hỏi bà làm vợ bà (coi như) đã có chồng rồi, chẳng qua vô phận mà chồng bỏ…” Trách chi Lãn Ông không tan nát cõi lòng, “tâm thần kinh loạn”.

 

Để chuộc lỗi mình, và cũng là kính ngưỡng sự tu hành của người xuất gia, Lãn Ông chỉ xin bà cho ông được coi bà như “cô em gái nhỏ”, bảo dưỡng bà suốt đời từ đây. Vì bà đã đi tu nên ông đề nghị cất cho bà cái chùa nhỏ, trong một cảnh vườn vằng vẻ yên tĩnh: “Mùa đông cũng như mùa hè, lạnh ấm đều sẽ do ông lo liệu, một là để báo ân, hai là để chuộc lỗi…”

 

Bà cố cầm giọt lệ: “Quan nhân có hậu tình, còn tôi chẳng gặp chồng, cái thân cô khổ cũng là do số mệnh vậy, đâu có dám trách ai… Nay tôi được biết tấm lòng tốt này cũng an ủi cảnh linh lạc vậy”. Và bà đã từ chối.

 

Rồi Lãn Ông làm thơ. Phải, bởi vì đâu có thứ thuốc nào sắc ba chén còn bảy phân mà chữa được cái bệnh của ông bây giờ! Ông viết: “Tôi lấy làm thương tình, mới giải lòng trong một bài thơ.” Bài thơ đó như sau:

 

Vô tâm nên nỗi lỡ người ta,

Nay lại nhìn nhau luống thẫn thờ.

Một nụ cười tình, châu lệ lạnh,

Đôi tròng xuân cạn nét tài hoa.

Đời nay xin kết anh em ngãi,

Kiếp tới nên tròn phận thất gia.

Ta chẳng phụ người, người nỡ phụ,

Đành thôi như thế, biết sao mà!

(Bùi Hạnh Cẩn dịch)

.

Cảm động vì bài thơ “giải lòng” đó mà bà đã tha thứ cho ông. Từ đó thời thường qua lại hỏi thăm nhau.

Tuổi hạc ngày càng cao, bà chỉ xin ông mua gỗ ở Nghệ An đóng cho bà một cỗ quan tài. và phải đúng gỗ ở Nghệ An bà mới chịu, vì đây là vùng Hương Sơn quê mẹ Lãn Ông (Lãn Ông quê gốc Hải Dương, nhưng sống và thành danh ở Hương Sơn). Có lẽ bà nghĩ lúc sống đã không được nên duyên vợ chồng thì lúc chết ít ra cũng được âu yếm nằm trong một cổ quan tài do ông đóng cho bà từ thứ gỗ của quê hương ông.

 

Đó, chuyện buồn của Hải Thượng Lãn Ông, “Ông Làm Biếng” làng Hải Thượng, một chuyện thuỷ chung, nhân hậu của một thầy thuốc, ông Tổ của ngành Y, làm ta thấy càng gần gũi với ông hơn, càng quý trọng ông hơn.

 

 

Thứ Bảy, 30 tháng 10, 2021

Eisenhower thoát chết nhờ sự thiện lương

 

 Ảnh: Tướng Eisenhower (giữa) nói chuyện với các binh sĩ trước cuộc đổ bộ lịch sử lên Normandy, Pháp, tháng 6/1944.

SỰ THIỆN LƯƠNG CỦA TỔNG THỐNG EISENHOWER ĐÃ CỨU ÔNG THOÁT CHẾT TRONG GANG TẤC

Vào một ngày trong Thế chiến thứ II, Dwight David Eisenhower, lúc đó là Tổng tư lệnh của quân Đồng minh Châu Âu đang trên đường quay về Tổng bộ ở Pháp để tham dự hội nghị quân sự khẩn. Ngày hôm đó tuyết rơi dày đặc, thời tiết lạnh lẽo, xe chạy rất nhanh. Trên con đường mờ mịt, Eisenhower bỗng nhìn thấy một đôi vợ chồng già ngồi bên đường, run rẩy vì giá rét.

Eisenhower lập tức ra lệnh dừng xe, bảo người phiên dịch bên cạnh ông xuống xe hỏi thăm. Một vị tham mưu nhắc nhở: “Thưa ngài, chúng ta phải đến kịp cuộc họp ở Tổng bộ, việc này cứ giao lại cho cảnh sát địa phương xử lý đi ạ”. Nhưng Eisenhower kiên quyết nói: “Nếu như đợi cảnh sát địa phương đến thì hai ông bà này đã bị lạnh chết rồi!”.

Hóa ra đôi vợ chồng già đến Paris để thăm con trai, nhưng xe chết máy giữa đường. Trong màn tuyết dày đặc không nhìn thấy ai cả, họ không biết phải làm thế nào. Nghe xong, Eisenhower không hề do dự, lập tức mời họ lên xe và đặc cách đưa đôi vợ chồng già về nhà con trai ở Paris trước, sau đó mới quay về Tổng bộ.

Sự thiện lương của Eisenhower thực sự đã cứu thoát ông khỏi một vụ ám sát. Ngày hôm đó, quân Đức Quốc Xã đã mai phục trên đường Eisenhower đi. Hitler đinh ninh rằng vị Tổng tư lệnh quân Đồng minh sẽ chết chắc, nhưng kế hoạch lại không thành công do sự thay đổi hành trình đột ngột của Eisenhower. Sau chuyện này Hitler bắt đầu nghi ngờ các tin tình báo mà mình nhận được. Ông ta nào biết rằng Eisenhower vì cứu giúp cặp vợ chồng già gặp khó khăn mà đã đi con đường khác.

Không ngờ chính sự chuyển hướng đi thình lình ngoài kế hoạch này đã cứu mạng vị tướng lừng danh! Quân Quốc Xã có tin tình báo nên biết chính xác hành trình của tướng Dwight Eisenhower và đã bố trí sẵn các tay súng bắn tỉa nấp rình tại các ngã tư. Nếu ông tới thì sẽ bị hạ sát ngay chỗ đó. Nhưng hóa ra chỉ nhờ vào cái tâm lương thiện, cái lòng từ bi đã giúp tướng Dwight Eisenhower đổi lộ trình và tránh thoát cuộc mưu sát này. Quả là tự cứu mình bằng cách giúp người khác.

Trong cuốn “The Idea that is America: Keeping Faith with our Values in a Dangerous World” (Tạm dịch: Tin tưởng vào những giá trị quan của nước Mỹ trong một thế giới hiểm nguy) có kể một câu chuyện về vị tổng thống thứ 34 của nước Mỹ, ngài Dwight David Eisenhower trên đây.