“Duy Tân” – có lẽ ngay
từ cái tên của vị vua này, chúng ta đã có thể cảm nhận được luồng tư tưởng mới
mẻ, lối tư duy cách tân. Cái tên này đã cùng ông trải qua đời vua và kiếp người
như thế nào? Tại sao Duy Tân được đánh giá là một những ông vua yêu nước của
triều Nguyễn thời mạt kì?
Vua Duy Tân, tên húy
là Nguyễn Phúc Vĩnh San, sinh vào năm 1900 tại kinh thành Huế, ông là vị vua
thứ 11 của triều đại nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam. Ông
là hoàng nam thứ 8 của vua Thành Thái và bà hoàng phi Nguyễn Thị Định.
Khi vua cha Thành Thái
bị đưa đi lưu đày, thực dân Pháp quyết định chọn một người con của Thành Thái
để nối ngôi. Theo quy định tự cổ chí kim của Hoàng tộc, người kế vị vua cha sẽ
là con trai trưởng. Tuy nhiên, ủ sẵn âm mưu thao túng, thực dân Pháp muốn chọn
một vị “ấu đế” để dễ bề giật dây.
Khi Khâm sứ Lévecque cầm danh sách các Hoàng tử vào Hoàng cung chọn người nối
ngôi Thành Thái, trong lúc điểm danh thì thiếu mất Vĩnh San.
Triều đình hốt hoảng
tìm kiếm thì thấy Vĩnh San đang chui dưới gầm giường bắt dế. Vĩnh San bị lôi
ra, mặt mày lem luốc, quần áo ướt nhẹp. Không kịp đưa về nhà tắm rửa, bọn thị
vệ đưa ngay hoàng tử nhỏ ra trình diện quan Pháp. Chính ấn tượng này khiến Pháp
nghĩ rằng Vĩnh San nhút nhát và đần độn, có thể làm tay sai đắc lực. Pháp quyết
định chọn Vĩnh San làm vua khi mới 7 tuổi. Do còn nhỏ nên triều đình xin tăng
thêm một tuổi thành 8.
Ngày 5 tháng 9 năm
1907, Vĩnh San đăng cơ. Triều đình cũng đặt niên hiệu cho Vĩnh San là Duy Tân,
như muốn hướng tới thành toàn sự nghiệp không thành của vua Thành Thái.
Tuổi đời còn trẻ nhưng vua Duy Tân lại vô cùng cương nghị, chống Pháp quyết
liệt. Có lần, ngồi câu trước bến Phu Văn Lâu, vua ra vế đối với Nguyễn Hữu Bài
(vừa là thầy, vừa là một trong 6 phụ chính Pháp lập ra để kiểm soát vua):
“Ngồi trên nước không
ngăn được nước, trót buông câu nên lỡ phải lần”.
Nguyễn Hữu Bài đáp lại:
“Nghĩ việc đời mà ngán cho đời, đành nhắm mắt đến đâu hay đó”.
Mặt đượm buồn, vua nói: Hóa ra thầy là người bó tay cam chịu trước số mạng.
Theo ý trẫm, sống như thế thì buồn lắm. Phải có ý chí vượt qua gian khổ, khó
khăn tiến lên thì mới sống có ý nghĩa.
Ngày 6/5/1916, kế
hoạch bàn mưu khởi nghĩa đánh Pháp không may bị lộ vua Duy Tân cùng nhiều chiến
sĩ cứu nước khác đã bị thực dân bao vây và bắt giữ tại một ngôi chùa ở Quảng
Ngãi. Dù Pháp dùng những lời đường mật, vua vẫn nhất định không theo giặc trở
về. Khi toàn quyền Pháp ở Hà Nội đích thân ra gặp và dụ dỗ, vua vẫn kiên định
trả lời: “Các ngài muốn buộc tôi làm vua nước Nam, thì hãy coi tôi là một ông
vua trưởng thành và có quyền tự do hành động, nhất là quyền tự do trao đổi thư
tín và chính kiến với chính phủ Pháp”.
Sau một tuần bị giam ở
đồn Mang Cá và gặp những thuyết khách của triều Nguyễn, không thay đổi chính
kiến, vua Duy Tân bị mang án lưu đày sang đảo Réunion. Theo vua đi đày có Hoàng
mẫu Nguyễn Thị Định, Hoàng quý phi Mai Thị Vàng và em ruột Mệ Cưởi mới 12 tuổi.
Các chí sĩ Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu đều bị xử
chém.
Lưu đày ở đảo La
Réunion
Ngày 3 tháng 11 năm 1916, gia đình vua Thành Thái và Duy Tân lên tàu Guadiana ở
Cap Saint-Jacques. Đến ngày 20 tháng 11 họ tới bến Pointe de Galets đảo La
Réunion lúc 7 giờ rưỡi sáng. Tại đây, ông từ chối một biệt thự sang trọng người
Pháp dành cho, gia đình cựu hoàng sống trong một căn nhà thuê lại một người dân
ở thành phố Saint-Denis. Ông sống giản dị trong căn nhà nhỏ, ăn mặc và sinh
hoạt cũng giản dị như bao người dân bình thường khác ở đảo.
Duy Tân bất bình với
cha Thành Thái vì không hợp tính tình, ông cắt đứt liên lạc với gia đình. Duy
Tân ghi tên học về vô tuyến điện và mở tiệm Radio – Laboratoire bán hàng sửa
chữa máy. Đồng thời, ông thi tú tài ở trường trung học Leconte de Lisle và học
thêm ngoại ngữ, luật học.
Duy Tân ít quan hệ với
người Pháp, chỉ giao du với một nhóm bạn bè. Ông tham gia hội yêu nhạc, học
cưỡi ngựa và thắng nhiều cuộc đua. Cựu hoàng Duy Tân còn viết nhiều bài và thơ
đăng trong những tờ báo Le Peuple (Dân chúng), Le Progrès (Tiến bộ) dưới biệt
hiệu Georges Dry. Bài Variations sur une lyre briée (Những biến tấu của một cây
đàn lia gãy vỡ) được giải nhất văn chương của Viện Hàn lâm Khoa học và Văn
chương La Réunion năm 1924. Duy Tân còn là hội viên của Hội Tam Điểm,
Franc-Macon và Hội địa phương bảo vệ Nhân quyền và quyền Công dân.
Trong Thế chiến II (1939
– 1945), vua Duy Tân tình nguyện gia nhập quân đội của “nước Pháp tự do”. Chiến
thắng thuộc về phe Đồng minh, ông được giải ngũ với hàm thiếu tá không quân.
Ngày 18 tháng 6 năm 1940, Charles de Gaulle kêu gọi chống Đức quốc xã. Sự việc
nước Pháp bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đầu hàng phát xít Đức và
sau đó lực lượng kháng chiến Pháp ở hải ngoại do De Gaulle đứng đầu được thành
lập ở Anh trở về tái chiếm đất Pháp đã có tác động rất lớn đến tư tưởng, tình
cảm của Cựu hoàng. Ông xem De Gaulle là thần tượng, là hình mẫu cho hoạt động
cứu nước của mình.
Tuy “nước Pháp tự do”
và nước Pháp thực dân mà ông chống đối đều là một nước Pháp, Duy Tân hưởng ứng
và bằng đài vô tuyến điện, ông đã thu thập tin tức bên ngoài để chuyển cho Lực
lượng kháng chiến tự do Pháp. Vụ việc đổ bể, ông bị nhà cầm quyền La Réunion
(lúc đó theo Chính phủ Vichy) câu lưu sáu tuần. Sau đó, ông phục vụ ba tháng
với cấp bậc hạ sĩ vô tuyến trong phe kháng chiến của tướng Legentilhomme và đại
tá Alain de Boissieu. Bị giải ngũ vì lý do sức khoẻ, Duy Tân nhờ thống đốc La
Réunion là A. Capagory (1942 – 1947) can thiệp cho ông đăng vào bộ binh Pháp
dưới quyền của tướng Catroux với cấp bậc binh nhì. Một thời gian sau ông được
thăng lên chuẩn úy rồi sang châu Âu.
Ngày 5 tháng 5 năm 1945,
có lệnh đưa chuẩn úy Duy Tân về phòng Quân sự của tướng Charles de Gaulle ở
Paris. Duy Tân đến Pháp vào tháng 6 năm 1945 thì Đức đã đầu hàng ngày 8 tháng
5. Ngày 20 tháng 7 năm 1945, ông được đưa qua phục vụ tại Bộ tham mưu của Sư
đoàn 9 Bộ binh Thuộc địa (9ème DIC) đóng ở Forêt Noire, Đức.
Ngày 29 tháng 10 năm
1945, Charles de Gaulle ký một sắc lệnh hợp thức hoá những sự thăng cấp liên
tiếp của Duy Tân trong Quân đội Pháp: thiếu uý từ 5 tháng 12 năm 1942,trung uý
từ 5 tháng 12 năm 1943, đại uý tháng 12 năm 1944 và thiếu tá ngày 25 tháng 9
năm 1945. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng cựu hoàng Duy Tân đã bị dùng như một
con bài chính trị trong kế hoạch mật tái chiếm Đông Dương của Pháp.
Qua đời sau vụ rơi máy
bay
Ngày 24 tháng 12 năm 1945, Duy Tân lấy phi cơ Lockheed C-60 của Pháp cất cánh
từ Bourget, Paris để trở về La Réunion thăm gia đình trước khi thi hành sứ mạng
mới. Lúc 13 giờ 50, phi cơ rời Fort Lami để bay đến Bangui, trạm kế tiếp. Ngày
26 tháng 12 năm 1945, khoảng 18 giờ 30 GMT, máy bay rớt gần làng Bassako, thuộc
phân khu M’Baiki, Cộng hoà Trung Phi. Tất cả phi hành đoàn đều thiệt mạng, gồm
có một thiếu tá hoa tiêu, hai trung uý phụ tá, hai quân nhân trong đó có cựu
hoàng Vĩnh San và bốn thường dân.
Theo nhiều người đây
có thể là một vụ mưu sát. Việc vua Duy Tân trở lại Việt Nam sẽ gây khó khăn cho
Anh trong việc trao trả các thuộc địa.
Ngày 28 tháng 3 năm
1987, hài cốt của vua Duy Tân được gia đình đưa từ M’Baiki, Trung Phi về Paris
làm lễ cầu siêu tại Viện Quốc tế Phật học Vincennes và sau đó đưa về an táng
tại An Lăng, Huế, cạnh nơi an nghỉ của vua cha Thành Thái, vào ngày 6 tháng 4
năm 1987.
Hôn nhân
Vua Duy Tân có 4 người vợ. Người vợ chính là bà Hoàng quý phi Mai Thị Vàng. Lúc
theo chồng lưu đày, bà đã có mang 3 tháng và bị sảy. Sau hai năm, do không hợp
thủy thổ, đau ốm liên miên nên bà cùng mẹ và em vua cùng trở về nước. Năm 1925,
Duy Tân đã gửi thư kèm giấy ly hôn cho Hội đồng dân tộc để bà Mai Thị Vàng đi
lấy chồng khác, nhưng người phụ nữ 27 tuổi vẫn thủ tiết với chồng.
Sau khi ly dị, vua kết
hôn với một người phụ nữ địa phương, từ 1929 đến 1939, sinh được 4 con, 3 trai
và 1 gái. Rồi không rõ người vợ này đã chết hay hôn nhân tan vỡ, cựu hoàng tiếp
tục lấy một người phụ nữ khác, hạ sinh một người con gái.
Tháng 10 năm 1945, Duy
Tân chấp thuận lời đề nghị của Tổng thống Pháp Charles de Gaulle trở về Việt
Nam, nhưng bị tai nạn máy bay và qua đời trên đường đi thăm vợ con ở đảo
Réunion. Sự kiện này chính thức kết thúc cuộc đời của vị vua yêu nước triều
Nguyễn.
Sau khi vua Duy Tân
chết ở trung phi, thi hài của ông được chôn cất ở đó. Năm 1987 hài cốt nhà vua
được cải táng từ trung phi đưa về chôn cạnh mộ vua Thành Thái ở An Lăng.
Nguồn Lịch sử Việt Nam
Ảnh : 1. Vua Duy Tân
(Nguyễn Phúc Vĩnh San)
2. vua Duy Tân năm 1907. Bức hoành sau lưng ghi bốn chữ “Tiên cấm trường xuân”