Thứ Tư, 1 tháng 12, 2021

Mục lục Bài viết tháng 1 - 11/2021

 Mục lục Bài viết tháng 1 - 11/2021

Cách tìm bài : Bạn nhấn Ctrl+F để mở cửa sổ và gõ từ cần tìm vào, bài cần tìm sẽ được đánh dấu và bạn chỉ cần nhấp chuột vào đó là có ngay bài cần tìm
 
NĂM 2021 
 
 
 
 
 
 ▼  tháng tám  (61)
 
 

 ▼  tháng năm  (53)

 

Thứ Ba, 30 tháng 11, 2021

Công chúa Huyền Trân

 

Ảnh: Lễ hội đền Huyền Trân công chúa được tổ chức hàng năm vào ngày mồng 9 tháng 1 Âm lịch, tại Trung tâm Văn hóa Huyền Trân, phường An Tây, thành phố Huế.

CÔNG CHÚA HUYỀN TRÂN

Công chúa Huyền Trân là con gái yêu của Thượng hoàng Trần Nhân Tông và là em gái vua Trần Anh Tông. Huyền Trân chào đời trong khung cảnh đất nước mới trải qua cơn binh biến tàn khốc do nạn ngoại xâm. Giặc Nguyên thất bại thảm hại khi 3 lần rắp tâm thôn tính Đại Việt không thành, nhưng vẫn tìm cách báo thù. Nhiều lần nhà Nguyên cho sứ sang hoạnh họe, bắt bẻ, dọa nạt.

Do vậy, triều đình ngày đêm lo lắng đối phó với kẻ thù. Phía Tây và phía Nam nhiều lần bị giặc quấy phá khiến nhân dân điêu đứng, lầm than. Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã tới nhiều nơi để hoằng pháp giáo lý. Ngài từng đến cả Chiêm Thành tỏ tình hòa hảo, được vua Chiêm Chế Mân và các vị tu hành ở đây vô cùng cảm phục.

Qua bảy, tám tháng sống ở đất Chiêm, Thượng hoàng ngày càng yêu mến mảnh đất này, vốn là nơi có nền văn hóa cổ sơ, người dân lại có tài xây dựng đền đài chùa tháp. Đồng thời, người muốn xóa đi mối hận thù, mặc cảm Chiêm – Việt từ bao đời nên hứa gả con gái yêu Huyền Trân cho Chế Mân. Thượng hoàng hẹn sau 4 năm khi công chúa đủ 18 tuổi thì sẽ cho Chế Mân mang sính lễ sang cầu hôn.

Trở về nước, vua Trần Nhân Tông kể về chuyến du hành phương Nam và ông vua trẻ Chế Mân văn võ song toàn cho con gái Huyền Trân. Người bảo Huyền Trân giơ bàn tay lên và nói: “Con có thấy trên bàn tay con có hình bóng của Phụ hoàng và Thái hậu không? Trên bàn tay con không những có ta, có mẹ con mà còn có cả giống nòi đất nước”. Câu nói đầy ý nghĩa ấy khiến Công chúa Huyền Trân hiểu được trọng trách mà Phụ hoàng giao phó trên đôi vai bé nhỏ của mình.

Tháng 6/1306, đoàn thuyền Chiêm Thành trang hoàng lộng lẫy ra Thăng Long làm lễ rước dâu. Huyền Trân gạt nước mắt xuống thuyền xuôi nam để trở thành hoàng hậu Chiêm Thành khi mới 19 tuổi. Và cũng từ đó, 2 châu Ô – Lý trở thành đất Thuận Hóa của Đại Việt.

Sính lễ hai châu ngàn thuở hưởng
Giai nhân muôn dặm một đời đau. (Thơ Ngô Thì Nhậm)

Có thể nói đây là một cuộc hôn nhân mang đậm màu sắc chính trị đã mang đến cho Đại Việt đất đai của hai châu Ô và châu Lý (năm 1307 được vua Trần Anh Tông đổi thành Thuận Châu và Hóa Châu). Các huyện Triệu Phong, Hải Lăng (Quảng Trị ngày nay) và huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà (thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế ngày nay) thuộc Thuận Châu xưa. Các huyện Phú Lộc, Phú Vang (Thừa Thiên Huế) và Hòa Vang (Đà Nẵng), Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên (Quảng Nam) thuộc Hóa Châu xưa.

Về Chiêm Thành, Huyền Trân được phong làm hoàng hậu Paramecvari. Xinh đẹp lại hiểu biết, Huyền Trân được vua Chế Mân vô cùng yêu quý. Chưa đầy một năm bà sinh được con trai, đặt tên là Đa Da, lập tức được sách phong làm Thế tử. Tháng 5/1307, vua Chế Mân qua đời. Theo tục lệ Chiêm Thành, vua chết hoàng hậu phải lên giàn lửa chết theo. Tháng 9 sứ giả Chiêm Thành sang Đại Việt báo tin, vua Trần Anh Tông lo sợ cho tính mạng của em gái, lập tức sai Thượng thư Trần Khắc Chung và An phủ sứ Đặng Văn đem thuyền sang lấy cớ viếng tang tìm cách đón bà cùng con trai về nước.

Khi sang nước Chiêm, Trần Khắc Chung đã nói với người Chiêm rằng “nếu công chúa hỏa táng thì không ai chủ trương làm việc chay, chi bằng hãy ra bờ biển làm lễ chiêu hồn, đón linh hồn về, rồi công chúa sẽ lên giàn thiêu”. Khi ra đến biển, Trần Khắc Chung dùng thuyền nhẹ cướp công chúa đưa về Đại Việt.

Mới 20 tuổi, hôn nhân đang dang dở, phải lìa xa đứa con trai vừa lọt lòng, Thượng hoàng Trần Nhân Tông qua đời năm 1308 đã làm Huyền Trân kiệt sức. Chỉ trong vòng 2 năm, những khổ đau dồn dập khiến bà hoang mang chán nản không còn thiết tha với cõi đời. Mùa xuân năm 1309, sau hơn một năm về lại Thăng Long, Huyền Trân công chúa bỏ hết lầu son gác tía theo cha quy y cửa Phật, làm bạn với câu kinh tiếng kệ tại núi Trâu Sơn (nay thuộc Bắc Ninh) dưới sự chứng minh của Quốc sư Bảo Pháp và được ban pháp danh là Hương Tràng.

Năm 1311 bà về lập am riêng dưới chân núi Hổ thuộc làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản (nay là xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) để tu hành. Am này về sau được dựng thành chùa, tức chùa Nộn Sơn (Quảng Nghiêm tự ngày nay).

Trong thời gian tu hành, bà đã giúp dân các vùng lân cận dựng làng lập ấp. Tương truyền bà đã lập ra 36 ngôi làng ở huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Vì vậy cho đến nay, bà vẫn là một trong ba vị Thành hoàng được thờ tại xã An Ninh (làng Dành – nay thuộc huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình), bởi làng Dành chính là một trong những ngôi làng được bà góp sức dựng nên. Trải các triều đại bà được bao phong là Trung đẳng thần.

Năm 1340, bà ngọa bệnh rồi qua đời tại chùa Nộn Sơn, dân làng thương tiếc lập đền thờ bà bên cạnh chùa, bà được tôn gọi là Thần Mẫu.
Hình tượng công chúa Huyền Trân đã trở thành một tấm gương sáng trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của vương triều Trần.

Đến thời Nguyễn, bà được sắc phong là Trai tĩnh Trung đẳng thần vì có nhiều linh ứng và có công trong việc giữ nước giúp dân, đền thờ bà được lập trên núi Ngũ Phong ở Huế.


"Nguyên lý Peter" sự nổi lên các nhà lãnh đạo bất tài


 "NGUYÊN LÝ PETER" SỰ NỔI LÊN CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO BẤT TÀI

Nguyên lý Peter cho rằng trong một tổ chức, một người được thăng chức nếu năng lực của họ đủ để làm tốt công việc của mình. Kết quả là họ sẽ được thăng chức từ vị trí này lên vị trí khác đến khi họ được đề bạt vào một vị trí mà trong đó họ không còn đủ năng lực thực hiện nữa, và từ đó họ không thể thăng tiến hơn nữa.

Một trong những tiêu chí quan trọng của Nguyên lý Peter, vốn đã được thẩm định tính chính xác của nó hơn nửa thế kỷ qua, là “Đừng bao giờ cho rằng người thạo việc cũng đồng nghĩa là người có khả năng lãnh đạo”.

Để tìm ra xem ai là nhà quản lý tốt, chúng tôi cơ bản nhìn vào mức độ họ cải thiện hay thay đổi được hiệu suất của nhân viên dưới quyền", Kelly Shue đến từ Trường Quản trị Kinh doanh, Đại học Yale, nói.

Nếu những người trước đây có thành tích cao thực sự có năng lực trong công việc mới, nhiều người nghĩ rằng cả bộ phận do họ phụ trách sẽ đạt hiệu suất trung bình cao hơn.

Nhưng thật không may, đó không phải là những gì Kelly Shue thấy. Những nhà quản lý từng là nhân viên bán hàng tốt có xu hướng không mang lại động lực đáng kể cho đồng nghiệp của họ trong khi đó những người có phong độ kém hơn lại thường tốt hơn trong việc nâng cao doanh thu trung bình cho toàn đội.

"Có thể kiểu người có kinh nghiệm, giúp họ đạt doanh số cao đã khiến họ thành những nhà quản lý kém hiệu quả". Cùng với kết luận đó, Kelly Shue nhận thấy rằng những nhân viên bán hàng có thành tích làm việc nhóm có xu hướng là nhà lãnh đạo tốt hơn.

Mặc dù không có dữ liệu nhưng Shue nói rằng vấn đề được mô tả bởi "Nguyên lý Peter" cũng xảy ra trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và kỹ thuật. "Những nhà khoa học và kỹ sư tốt nhất - gồm cả những nhà sáng lập công ty khởi nghiệp không phải là người cuối cùng dẫn dắt tổ chức hay lãnh đạo nhớm".

Khi Lawrence J Peter nhắc đến điều này trong cuốn sách của mình, sự nổi lên của các nhà lãnh đạo bất tài cũng là một phàn nàn phổ biến trong giới học thuật và giáo dục. "Nhà nghiên cứu giỏi nhất hoặc người giảng dạy giỏi nhất có thể không phải là hiệu trưởng hay trưởng khoa của trường," bà Lawrence J Peter nói.

Vậy ai nên là sếp?

Theo những nghiên cứu đó, chúng ta có thể kết luận rằng nên bỏ qua thành tích hiện tại của một người và bổ nhiệm họ dựa vào những thứ như kỹ năng làm việc với mọi người của họ. Tuy nhiên, đó là chiến lược phải trả giá đắt. Vì sự thăng tiến là một phần thưởng tích cực với nhiều người, thúc đẩy phong độ cá nhân của họ. Việc loại bỏ nguồn động lực này có thể dẫn tới làm giảm năng suất trong toàn lực lượng.

Thực tế chúng ta thường cảm thấy yên tâm khi được quản lý bởi một người đã chứng minh được năng lực của họ trong công việc. Đây là kết luận được bà Amanda Goodall tại Trường Kinh doanh Cass ở London phát hiện ra gần đây.

Không giống Kelly Shue, Amanda Goodall không cân nhắc về thành tích mà lại xem xem nhân viên cảm thấy thế nào về sếp của họ - liệu họ có nản chí với những thứ như giao tiếp khó khăn không.

Phân tích dữ liệu trong cuộc khảo sát 28.000 công nhân, bà nhận thấy rằng chỉ 13% mọi người không hài lòng với sếp hiện tại. Đặc biệt, phàn nàn chung là các lãnh đạo thiếu năng lực chuyên môn.

Nếu bạn đang được quản lý bởi một người không thực sự hiểu hệ thống bạn đang sử dụng hay công việc hàng ngày của bạn, họ sẽ vẽ vời ra các quy trình vô bổ thêm rắc rối. Và họ cũng không thể tìm ra cách tốt nhất để hỗ trợ bạn trong giai đoạn khó khăn.

Nghiên cứu của Amanda Goodall đặt nghi vấn về giá trị của các vị quản lý “chung chung”, những người chuyển từ công ty này sang công ty khác mà không có chuyên môn cốt lõi trong một lĩnh vực cụ thể.

"Nhiều người tin rằng nếu có bằng thạc sỹ hay những bằng quản lý khác, có nghĩa là người đó sẽ tự động là một nhà quản lý tốt, nhưng nhiều bằng chứng cho thấy rằng không phải tất cả các trường hợp đều như vậy. Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe là một ví dụ, rất nhiều người nghĩ nên để bác sỹ làm việc chuyên môn và để nhà quản lý chuyên nghiệp điều hành bệnh viện. Nhưng nghiên cứu cho thấy rằng thực tế đó là sai. Bạn cần chính những bác sỹ giỏi để dẫn dắt những bác sỹ khác bởi họ hiểu những gì nhân viên đang làm".

Việc đề bạt cán bộ quản lý có ý nghĩa sống còn của cả hệ thống, không thể tuỳ tiện chủ quan được. Nơi nào xuất hiện chạy chức, chạy quyền, mua quan bán chức… Kết cục khỏi bàn đã tỏ.

Thứ Hai, 29 tháng 11, 2021

Đánh giá người khác khó hay dễ

 

"CHÚNG TA THƯỜNG ĐÁNH GIÁ NGƯỜI KHÁC THEO TIÊU CHUẨN CỦA MÌNH NHƯNG SAU ĐÓ LẠI GIÀNH CẢ ĐỜI CỦA MÌNH ĐỂ SỐNG THEO TIÊU CHUẨN CỦA NGƯỜI KHÁC"

“Mỗi người sinh ra là một nguyên bản” mang một cá tính riêng biệt, một dân tộc, một tôn giáo, một hoàn cảnh, một điều kiện khác nhau. Mỗi cá nhân là một màu sắc và hơn hết là họ có quyền được tôn trọng màu sắc cá nhân đấy. Vì vậy trước hết chúng ta cần học cách tôn trọng màu sắc cá nhân đấy trước khi dùng lăng kính chủ quan của cá nhân. Nhưng dù có làm được vậy đi chăng nữa thì việc nhìn nhận và đánh giá người khác cũng chưa bao giờ là khó khăn và cũng chưa bao giờ là dễ dàng đến thế.

Nam Cao từng đã phải thốt lên rằng “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi...toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương...Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất.” Chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể biết được một ai nếu chính chúng ta không bao giờ thực sự “cố tìm và hiểu họ”.

Muốn hiểu và nhìn nhận người khác, trước tiên chúng ta nên hiểu chính bản thân mình trước, hãy là chính bản thân mình mà không phải là ai khác khi nhìn nhận người khác. Bởi lẽ khi bạn là chính mình, bạn hiểu được mình, bạn sẽ có hệ quy chiếu riêng của chính mình, bạn sẽ có một nội tại cố định để có thể nhìn thấu và bao quát và vươn xa hơn những gì bạn thấy. Thay vì luôn bị dao động theo ý kiến đám đông để dần dần ta cũng sẽ mất đi bản sắc cá nhân mình và tệ hơn là sống cuộc đời mình theo người khác và sống cuộc sống người khác thay vì cuộc sống của chính mình và nỗ lực không mệt mỏi cả đời sống theo cuộc sống của bọn họ.

Đánh giá luôn là phương thức để xã hội thay đổi phát triển. Yêu ghét ai là chuyện của cá nhân chúng ta, chúng ta có quyền quyết định tự cho bản thân mình yêu hay ghét một người trong phạm vi giới hạn của chính bản thân chúng ta nhưng không có nghĩa là chúng ta có quyền bắt tất cả mọi người phải giống như ta. Những con người vô tội đấy không đáng bị phê phán hay chê trách bởi hiểu biết hạn hẹp của ta. Chúng ta có quyền phê phán cái xấu, ngợi ca cái đẹp. Cái đẹp có thể đích thực là cái đẹp không cần phải hoài nghi, nhưng cái xấu chưa hẳn đã là cái xấu hoàn toàn mà không cần phải nghi ngờ.