Những điều Freud phân tích và khám phá vềnphân tâm học gần như trùng khớp
với những khái niệm cơ bản nhất của Phật giáo, chỉ có điều tất cả đều được diễn
đạt bằng một thứ ngôn ngữ khác.
Sigmund Freud (tên đầy đủ là Sigmund Schlomo Freud; 6 tháng 5, 1856 – 23 tháng 9, 1939) nguyên là một bác sĩ về thần kinh và tâm lý người Áo. Ông được công nhận là người đặt nền móng và phát triển lĩnh vực nghiên cứu về phân tâm học.
Những điều mà khoa học
đã tốn rất nhiều công sức mới dần nhận ra cái phần tâm lý bí ẩn mà Freud gọi là
vô thức, bản năng, Nhà Phật cũng có khái niệm Vô minh hình thành từ Vô thủy,
thường được gọi chung là Vô thủy Vô minh. Thật kỳ lạ, tại sao nhà Phật lại có
cái khái niệm và sự diễn đạt chính xác đến vậy về cái tối tăm trong đời sống
tinh thần từ thời con người chưa là NGƯỜI. Từ hơn 2000 năm trước Phật Thích Ca
và các vị tổ sau này nhìn thấy điều gì trong tâm hồn con người rồi gọi tên nó
là “cái hầm sâu vô thủy vô minh”? “Cái hầm sâu này” dường như Freud cũng chỉ
mới bắt đầu cảm thấy chứ chưa thực sự hiểu cặn kẽ về nó, thậm chí đã tìm ra
phương pháp để “phá tan” cái hầm sâu vô thủy vô minh ấy như Phật và các thiền
sư nhà Phật đã làm để có được một cái nụ cười tự nhiên, thanh thản, an lạc như
thấm đẫm đến từng tế bào như vậy.
Nhà Phật không ai
không biết đến các khái niệm vạn pháp do tâm tạo và tu là chuyển nghiệp. Freud
cũng nói đến rất nhiều khái niệm số phận của mỗi người là do chính người đó,
qua sự điều khiển của vô thức mà hình thành nên số phận của anh ta. Có người
sống với người vợ nào rồi cũng ly dị, chơi với bạn nào rồi cũng bị bạn phản.
Freud đã phân tích khá kỹ rằng chính vô thức đã thôi thúc ở bên trong anh ta để
cuộc ly dị xảy ra, cuộc phản bội của bạn hình thành thì anh ta mới thỏa mãn mà
không hề tự biết điều đó. Thì ra ta đi đâu cũng gặp người khó tính, người ích kỷ,
người thủ đoạn là do chính bởi ta tạo nên họ chứ không phải họ có sẵn đó và ta
chỉ gặp. Những khái niệm này là vô cùng gần với Phật giáo, số phận của ta là do
chính nhân duyên nghiệp chướng ta tạo nên mà thành.
Nhà Phật hay kể một
câu chuyện rất hay để minh hoạ là: Có một cô con dâu không chịu nổi bà mẹ chồng
khó tính, mới quyết định xin thầy cho loại thuốc nào đó cho bà chết đi. Vị thầy
bảo, để cô không phải bị truy tố, ông sẽ cho một loại thuốc uống hằng ngày mà
bà mẹ chồng sẽ chết sau một năm không để lại một dấu vết nào, chỉ với một điều
kiện, đừng làm cho bà giận, bà chỉ cần giận một lần thôi là thuốc sẽ không hiệu
quả. Cô con dâu từ đó cho bà uống thuốc và cố không làm bà giận, mà khi con
người ta không giận thì chỉ có vui trở lên. Sau một năm cô con dâu đến gặp thầy
và khóc xin sao cho mẹ chồng đừng chết nữa, vì cô đã rất yêu mến mẹ chồng và bà
mẹ chồng cũng rất yêu mến cô. Vị thầy cười bảo, thuốc đó là củ sâm, chỉ có tốt
chứ không độc, và báo cho cô biết mọi chuyện đã thay đổi kể từ khi chính cô
thay đổi cách sống, thay đổi thái độ của cô với bà mẹ chồng.
Tu là chuyển nghiệp,
tức sửa chữa mình thì sẽ thay đổi số phận. Đi đến cùng của khái niệm này ta sẽ
thấy quả thật là “Vạn pháp do tâm tạo”. Thế giới này xét cho cùng là thế giới ở
trong ta, thế giới ta nhận thức. Thế giới được ta quan sát là quan trọng hơn
rất nhiều cái thế giới thực mà con người khó có thể nắm bắt. Cái tâm ta đối
diện với mặt trăng quan trọng hơn rất nhiều bản thân cái mặt trăng khô khốc bụi
đất, hoặc mặt trăng có chị Hằng chú Cuội ở trên. Thượng Đế có thật hay không
không quan trọng bằng thái độ của chúng ta khi đối diện với một Thượng Đế thật
hoặc không có một Thượng Đế nào cả.
Có nghĩa là, với Phật
giáo, thì cái tâm của mình là một thế giới cần được khám phá hơn bất cứ điều gì
khác. Các tầng mức giác ngộ, các tầng thánh quả, chính là các tầng mức hiểu
biết về cái tâm của mình.
Và Freud cũng vậy, cả
sự nghiệp của ông là sự nghiệp khám phá những góc khuất sâu kín, tối tăm thậm
chí bỉ ổi, thối tha nhất mà không ai dám thừa nhận trong tâm hồn con người. Kéo
con người đừng nhìn ra ngoài nữa mà hãy nhìn vào cái động lực, trên đó từng mỗi
hành vi hình thành là mục đích của cả Freud và Phật giáo. Quán nhân duyên, biết
mỗi sự việc xảy ra (quả) là từ cái nguyên nhân (nhân) nào đưa đến là trí tuệ
cao nhất mà mỗi Phật tử đều mưu cầu.
Chỉ với những cái nhìn ban đầu, chỉ với những bước đi đầu tiên nhằm tìm thấy những góc khuất trong đời sống tinh thần con người chúng ta đã thấy với công cụ “Phân tâm học” do Freud lập nên, có lẽ sẽ là điều kiện tốt nhất để mỗi Phật tử, và để mỗi người có thể nhận ra những động cơ sâu kín nhất trong mình, vẫn thường thôi thúc mình hành động thế này chứ không phải thế khác, tạo nên “quả” này chứ không phải “quả” khác. Ảnh minh họa
Làm chủ sanh tử há
không phải là làm chủ bản năng đấy sao? Các tổ Thiền tông cũng thường bảo, phá
tan được cái hầm sâu vô thủy vô minh ấy thì kiến tánh thành Phật! Có một điều
cần chú ý là, nhà Phật hay nói lìa tri kiến, sở tri chướng, tức những hiểu
biết, kiến thức, nhận thức luôn là những trở ngại trên con đường đạt đến sự
giác ngộ. Chỗ này thì Lão Tử và Đạo Đức Kinh lại có một tương đồng khác nữa.
Nếu hiểu bản năng chính là Vô minh thì ta sẽ hiểu một tầng nghĩa khác của nó,
đó chính là sự hiểu biết không bao giờ, và sẽ không bao giờ, chế ngự được bản
năng. Chỉ có sự không biết, thiền định ở mức độ “vô nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân,
ý” (không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý-Bát Nhã Tâm Kinh); hoặc “tâm như tường
bích” (tường đá) (Bồ Đề Đạt Ma); hoặc Vô Sở trụ (kinh Kim Cang); tức ở cái chỗ
mà tâm con người ta không đứng, không dựa trên bất cứ điều gì cả, tức chỗ không
biết cái gì cả, không ý thức cái gì cả, thì hầm sâu vô minh sẽ bị phá, đó là
lúc mà Bản Năng sẽ không còn “quấy rầy” con người nữa, con người thực sự mất đi
phần CON để trở thành một NGƯỜI đúng nghĩa.
Đó là nói phần khác
nhau trong giải quyết vấn đề, giữa Freud và Phật giáo, sau khi nhìn thấy sự tác
động mạnh mẽ của bản năng đến đời sống tinh thần của con người. Freud thì lôi
nó ra đặt nó trên mặt bàn của ý thức, và ông đã chữa được nhiều bệnh tâm thần
cho con người. Phật giáo thì không vậy, thật ra lôi tất cả ra dưới ánh sáng của
ý thức cũng là đường lối của nhiều tông phái Phật giáo, tuy nhiên, cái mục đích
cuối cùng của Phật giáo thì phải phá tan cái hầm sâu “Vô thủy vô minh” ấy. Làm
sao phá, đó là một chuyện vô cùng lớn và không thể bàn trong một bài báo.
Ở đây, chỉ với những
cái nhìn ban đầu, chỉ với những bước đi đầu tiên nhằm tìm thấy những góc khuất
trong đời sống tinh thần con người chúng ta đã thấy với công cụ “Phân tâm học”
do Freud lập nên, có lẽ sẽ là điều kiện tốt nhất để mỗi Phật tử, và để mỗi
người có thể nhận ra những động cơ sâu kín nhất trong mình, vẫn thường thôi
thúc mình hành động thế này chứ không phải thế khác, tạo nên “quả” này chứ
không phải “quả” khác. Để rồi từ đó hình thành nên một con người thực sự thông
tuệ, không còn bị những bản năng tăm tối hoặc vô thức vớ vẩn nào đó điều khiển
nữa. Đó há không phải là mục đích cao nhất mà nhân loại vẫn mưu cầu từ hàng
chục ngàn năm qua đấy sao?
ST
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét