Khoa học tập trung vào
nghiên cứu thế giới vật chất ở bên ngoài với mục đích hiểu được thế giới này và
để phục vụ đời sống của con người. Tôn giáo tập trung vào nghiên cứu thế giới
tinh thần ở bên trong với mục đích hiểu được thế giới này và giúp mang lại hạnh
phúc, yêu thương, và bình yên cho con người.
Cách tiếp cận của khoa
học là dùng số liệu và thực nghiệm để chứng minh cho những giả thuyết đến từ
trí tưởng tượng ban đầu của con người. Khoa học không tin vào những gì mà chưa
có bằng chứng thực nghiệm. Cách tiếp cận của tôn giáo là đến từ sự trải nghiệm
của mỗi cá nhân và xây dựng nên niềm tin từ những trải nghiệm này. Tôn giáo
không cần số liệu để chứng minh cho niềm tin vì nó là trải nghiệm nằm ở bên
trong của mỗi cá nhân con người.
Khoa học đã giúp cho
con người hiểu được sâu rộng thế giới vật chất ở bên ngoài. Tuy nhiên những
kiến thức khoa học mà chúng ta đang có vẫn còn vô cùng nhỏ bé và hạn chế so với
những gì chúng ta chưa biết về thế giới này. Do vậy những khám phá khoa học sẽ
tiếp tục được thấy trong tương lai. Với thế giới vật chất bên ngoài, khi một
khám phá nào đó được phát hiện ra thì mọi người sẽ đều có thể tiếp cận và chia
sẻ được khám phá khoa học này.
Ngược lại, tôn giáo là
sự khám phá về thế giới nội tâm của từng cá nhân con người. Vì nó là những khám
phá, nhận biết, và trở thành niềm tin ở bên trong của mỗi cá nhân, tôn giáo rất
khó có thể chia sẻ và hiểu được từ những người ở bên ngoài. Khám phá khoa học
có thể hiểu và chia sẻ dễ dàng cho mọi người xung quanh vì chúng là những gì có
thể nhìn thấy và cân đong đo đếm được, còn niềm tin tôn giáo thì rất khó có thể
chia sẻ vì chúng là vô hình.
Khi một người khám phá
và hiểu biết về thế giới nội tâm bên trong của mình, người đó sẽ phát triển
được ý thức làm chủ bản thân. Người đó sẽ hiểu và làm chủ được những suy nghĩ
và cảm xúc của mình. Người đó sẽ hiểu được những giá trị và niềm tin của bản
thân. Người đó sẽ hiểu được mối quan hệ của mình với thế giới tự nhiên và xã
hội bên ngoài. Khi một người hiểu được chính mình, người đó sẽ có một cuộc sống
cân bằng, hòa hợp, yêu thương, và hạnh phúc với chính mình và thế giới xung
quanh. Đây chính là những trải nghiệm của Đức Phật, của Chúa Jesus, và của
những hiền nhân khác trong lịch sử, và họ muốn chia sẻ và truyền bá những điều
này với tất cả mọi người. Và đây chính là tôn giáo và là mục đích cuối cùng của
tôn giáo.
Như vậy cả khoa học và
tôn giáo đều cần thiết và không thể thiếu trong đời sống của con người. Khoa
học giúp con người hiểu và làm giàu thế giới vật chất của mình. Tôn giáo giúp
con người hiểu và làm giàu thế giới tinh thần của mình. Cuộc tranh luận giữa
khoa học và tôn giáo chính là cuộc tranh luận giữa vật chất và ý thức – cái nào
quyết định cái nào và cái nào cần thiết hơn cái nào. Tôn giáo và khoa học tồn
tại song song và tác động lên lẫn nhau cũng giống như vật chất và ý thức. Vật
chất quyết định ý thức và ý thức quay trở lại quyết định và thay đổi vật chất.
Tôn giáo là khởi đầu của khoa học và khoa học quay trở lại tác động lên tôn
giáo. Các trường đại học lâu đời và nổi tiếng trên thế giới hiện đang là trung
tâm của khoa học đều có nguồn gốc bắt đầu từ nhà thờ và tôn giáo. Các nghiên
cứu khoa học quay trở lại giúp chứng minh để ủng hộ hay bác bỏ những niềm tin
tôn giáo. Đây là hai mặt dường như đối lập nhưng lại có mối quan hệ tương hỗ
mật thiết và không thể tách rời nhau.
Những nghiên cứu gần
đây về Thiền trong Đạo Phật là một ví dụ liên quan đến mối quan hệ giữa tôn
giáo và khoa học. Thiền là phương pháp giúp cho con người khám phá và thấu hiểu
thế giới nội tâm của mình. Những nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng thiền có
rất nhiều công dụng hữu ích giúp cho con người sống cân bằng, hạnh phúc, và
bình yên. Rất nhiều công ty và các trường đại học hàng đầu thế giới đã và đang đưa
những nghiên cứu và thực hành về thiền vào trong tổ chức của mình.
Có một ví dụ khác về
khoa học là hiện tượng rối lượng tử (Quantum Entanglement). Đây là một hiệu ứng
trong vật lý lượng tử mà hai hạt vật chất ở cách xa nhau nhưng có một mối quan
hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Trạng thái của một hạt vật chất sẽ có ảnh hưởng
ngay lập tức tới trạng thái của hạt kia thông qua hiện tượng liên đới lượng tử
này. Trong tôn giáo, đây là một niềm tin đã được biết đến từ rất lâu: Một chiếc
lá rung có thể lay động đến một ngôi sao, hay một lời nguyện cầu có thể vọng
vang đến hàng ngàn ngôi sao trong vũ trụ.
Nhà bác học Albert
Einstein có một câu nói nổi tiếng về mối quan hệ này: “Khoa học mà thiếu tôn
giáo thì khoa học què quặt. Tôn giáo mà thiếu khoa học thì tôn giáo mù lòa.” Cả
tôn giáo và khoa học đều cần thiết và không thể thiếu trong cuộc sống, và giáo
dục cần phải giúp con người học và hiểu được cả hai.
* GS. TS Vinh Q.
Nguyen, Đại học Coe College, bang Iowa, Mỹ
Ảnh Galileo đối mặt
với Tòa án Dị giáo La Mã. Tranh vẽ bởi Cristiano Banti vào năm 1857. Phải chăng
khoa học và tôn giáo không thể hòa hợp?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét