NỮ SĨ DIỆU ĐIỀN
Diệu Điển là pháp hiệu của một người con gái cùng cha khác mẹ của
Nguyễn công Trứ, một trang quốc sắc mà giữa lúc tuổi xuân lại đến
nương náu cửa Không: nhạt màu son phấn say màu đạo, mở cánh từ bi khép cánh
tình*.
Bà vốn có văn tài, nên tao nhân mặc khách thường hay gửi thi văn trêu cợt. Muốn
chấm dứt tình trạng này, bà làm một bài thơ toàn vần khó, để sách họa. Quả
nhiên không ai hoạ được trôi chảy. Sau đó, bà lại làm một bài thơ nữa để chế
diễu văn tài của các vị “tao ông” lúc ấy.
.
Bấy lâu hì hục một vần thơ.
Ván đã trơn lì, chiếu đã xơ….
Lắc vế, ngâm nga câu chẳng vẹn.
Rờ cằm, nhổ sạch bút còn trơ.
Mực bôi thảo bản đen trăm vạch.
Phấn rắc hoa tiên trắng một tờ.
Nhắn nhủ tao ông ai đó tá.
Đây là cửa Sấm, biết hay chưa?
* Bà Nguyễn Thị Muội (chị gái cùng cha khác mẹ của Nguyễn Công Trứ), hiệu Diệu Điển thiền sư, là “người có nhan sắc lại thông tuệ, từng thiệp liệp kinh sử, giỏi văn thơ, được mọi người ví như Thái Cơ, Tạ Uẩn”. Năm 16 tuổi, bà lấy chồng là Trang tiết Hiệu úy Nguyễn Đống, con trai cả của quan Tham chính, cháu ông Tham đốc họ Nguyễn ở xã Tiên Điền, sau ba năm bà sinh con gái nhưng rồi chồng mất, con gái cũng chết, bà đã toan chết theo chồng con nhưng được mọi người ngăn cản lại. Lúc bà 20 tuổi, quân Tây Sơn bình định miền bắc, thân thích nhà chồng chạy loạn hết (dinh cơ họ Nguyễn - Tiên Điền bị đốt phá, thiêu rụi), bà làm nhà cạnh nhà cũ của chồng, suốt ngày đóng cửa cài then. Có viên Trấn thủ Nghệ An là Trần Thận biết được phẩm hạnh của bà, cho người đến mai mối. Gia phả ghi câu trả lời của bà:
Thân góa bụa chưa chết này thường nghe: người phụ nữ thờ chồng cho đến chết, nay chồng vừa mất, đã không chết được theo chồng lại “ôm đàn tỳ bà qua thuyền khác” thì còn mặt mũi nào đứng ở trong đời. Nhờ nói giùm tôi như vậy. Nếu bị ép buộc, tôi chỉ còn đường trẫm mình xuống dòng nước xanh mà kết liễu cuộc đời thôi. Viên Trấn thủ biết không lay chuyển được nên ngay đêm ấy đem quân bủa vây nơi ở; nghe có biến, bà sai người hầu mang áo dài trùm kín lẻn ra ngoài. Mấy tháng sau người nhà mới biết bà đã trốn vào chùa Đỗ Phật ở xã Thuần Chân, huyện Thiên Lộc (nay là xã Thuần Thiện, huyện Can Lộc), cắt tóc đi tu.
NỮ SĨ CAO NGỌC ANH
Bà Cao ngọc Anh là con Cao xuân Dục, sớm gá nghĩa cùng Án sát Nguyễn duy
Nhiếp, con Nguyễn trọng Hiệp. Cha đẻ và cha chồng đều là đại thần nức tiếng về
văn học và phẩm cách.
Nguyễn duy Nhiếp thất lộc sớm, bà ở goá trong tuổi nửa chừng xuân, mà nhan sắc
lại tuyệt vời. Vì vậy, nhiều bậc thi nhân trong giới quan trường không khỏi có
ý muốn lân la, lấy thơ làm mối lái.
Bà tuyệt nhiên không trả lời ai cả.
Một hôm, nhân nhà có giỗ, bà cho triệu các vị ấy lại uống rượu. Rồi bà mời lên
cầu Hàm Rồng chơi.
Đến nơi, bà nói:
- Đứng trước danh sơn thắng cảnh này, dám xin các vị thi nhân mỗi vị cho một
bài làm kỷ niệm.
Một ông đáp:
- Vâng chúng tôi đâu dám chối từ, vậy xin bà cho bài xướng trước, chúng tôi xin
hoạ lại sau.
Bà nghe vậy đọc rằng:
Hàm Rồng nô nức tiếng đồn om.
Rải rác nhà tranh ở mấy chòm.
Hỏi đá chờ ai ngồi nhấp nhổm?
Thương cầu vì nước đứng lom khom.
Sóng như chào khách chờn vờn nhảy.
Nguyệt cũng yêu ta lấp ló dòm..
Cửa động rêu phong mờ nét chữ.
Ai người mến cảnh chút trông nom…
……………………(Vinh cầu Hàm Rồng)
.
Bài thơ vận khó quá, ý tứ lại tế nhị.
Câu “ Hỏi đá chờ ai ngồi nhấp nhổm ? ” và “ Sóng như chào
khách chờn vờn nhảy ” có ý trỏ vào các vị có thơ văn gửi đến trêu bà. Câu “
Thương cầu vì nước đứng lom khom ” và “ Cửa động rêu phong mờ nét
chữ ”, bày tỏ tâm sự mình, cảm thương số phận và quyết giữ tấm băng trinh.
Các vị thi bá tần ngần nghĩ không ra vần, và cũng không dám ghẹo cợt trước thái độ đoan trang ấy, nên đứng chơi hồi lâu rồi xin lỗi chủ nhân kéo nhau về. Từ đó không ai dám múa bút với bà nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét