Thứ Ba, 22 tháng 12, 2020

Sự xuất hiện thực phẩm hữu cơ

 

Sự xuất hiện thực phẩm hữu cơ

Thực phẩm hữu cơ hay còn được biết đến rộng rãi với cái tên "thực phẩm Organic", không tự dưng xuất hiện mà xuất phát từ nhu cầu chăm sóc sức khoẻ rất khắt khe của người tiêu dùng. Nếu như thị trường Việt Nam từng chao đảo vì vấn nạn thực phẩm bẩn cách đây vài năm thì người tiêu dùng ở các nước phát triển đã phải trải qua giai đoạn tồi tệ này từ hơn 100 năm trước, khi Mỹ và các nước châu Âu bắt đầu thực hiện công nghiệp hoá. 

Chính thời kỳ đó tình trạng thực phẩm bẩn còn kinh hoàng hơn rất nhiều những gì chúng ta biết. Với sự chuyển mình từ xã hội nông nghiệp sang công nghiệp, các mô hình trang trại mở thân thiện đều trở thành các nhà máy sản xuất khép kín, không cho người tiêu dùng tiếp cận tận mắt quy trình sản xuất. Cũng từ đây, chuỗi cung ứng thực phẩm dần mất đi sự minh bạch và lành mạnh vốn có. 

Hơn một nửa thực phẩm ở Mỹ cuối thế kỉ 19 được xét nghiệm là thực phẩm giả. Hàn the được sử dụng tràn lan, bột mì bị trộn lẫn với cám ngô, rau củ được ngâm CuSO4 để tạo màu xanh, thịt lợn được bảo quản bằng formaldehyde, sữa được pha với phấn và thạch cao, rượu và cafe chứa đầy chì, mật ong giả hoành hành tới mức bỏ xác ong vào sản phẩm trở thành phương pháp quảng cáo hữu hiệu để chứng minh là mật ong.. thật. Đó là kết quả khi các nhà sản xuất bỏ qua yếu tố chất lượng và minh bạch để nhắm tới năng suất và lợi nhuận.


Sự xuất hiện thực phẩm hữu cơ

Phong trào canh tác hữu cơ phát sinh vào những năm 1940 để đáp ứng với công nghiệp hoá của nông nghiệp. là kết quả của các ấn phẩm như cuốn sách The Living Soil năm 1943 và Trồng trọt và làm vườn vì sức khỏe hay bệnh tật (Farming and Gardening for Health or Disease) năm 1945.


Nông nghiệp hữu cơ đạt đến mức độ phổ biến khiêm tốn ở Hoa Kỳ vào những năm 1950. Đến những năm 1970, sự quan tâm đến thực phẩm hữu cơ tăng lên cùng với sự gia tăng của phong trào môi trường, và cũng bị thúc đẩy bởi những nỗi sợ về sức khỏe liên quan đến thực phẩm như những lo ngại về chất điều tiết sinh trưởng B-9 (Daminozide) nảy sinh vào giữa những năm 1980.

Theo công bố của USDA (Bộ Nông nghiệp Mỹ), thực phẩm hữu cơ được kiểm soát nghiêm ngặt và có giấy chứng nhận. Tại Việt Nam chúng được Liên đoàn quốc tế các phong trào nông nghiệp hữu cơ (IFOAM) chấp nhận, dưới sự chứng nhận của PGS Việt Nam (Participatory Guarantee System - hệ thống đảm bảo chất lượng nội bộ Việt Nam).

Holbrook cho biết thực phẩm hữu cơ không được sử dụng hócmôn hay dùng thuốc hóa học để thúc đẩy tăng trưởng, đồng thời cũng không sử dụng các sản phẩm biến đổi gen.

Theo J.I Rodale thì thực phẩm hữu cơ là nông sản không dùng thuốc trừ sâu và phân bón hóa học, chúng lớn lên bằng phân bón tự nhiên (phân xanh và phân ủ) và không sử dụng hóa chất, hay phụ gia và chất bảo quản.

Đối với thực phẩm hữu cơ, để có được chứng nhận organic, các nhà nông nghiệp phải tuân theo quy định rất nghiêm ngặt của USDA với việc không dùng bất kì loại hóa chất nhân tạo nào. Thay vào đó là những phương pháp bảo vệ cây trồng tự nhiên như sử dụng phân xanh, phân ủ, hay thiên địch cũng như chỉ sử dụng phương pháp sinh học để luân, xen canh cho cây trồng luôn nhận đầy đủ chất dinh dưỡng.

Trong quá trình chế biến, thực phẩm hữu cơ nói “không” hoàn toàn với các chất nhân tạo cũng như các loại dung môi công nghiệp hay chiếu xạ, chỉ sử dụng nguyên liệu hữu cơ để chế biến ra thành phẩm.

Sản xuất thực phẩm hữu cơ đòi hỏi thực hiện trong một hệ sinh thái đảm bảo, không được gần các nhà máy công nghiệp, không gần quốc lộ, tại vùng đất nền và nguồn nước có dư lượng kim loại và các chất độc tự nhiên thấp. Nguồn nước tưới và chăn nuôi phải là nước giếng sạch, không phải nước sông.


Ở Việt Nam, khái niệm thực phẩm hữu cơ Organic không còn mới mẻ nhưng nó chưa được biết đến rộng rãi và mọi người cũng chưa hiểu hết được ý nghĩa cũng như tầm quan trọng của nó đối với đời sống và sức khỏe. và không ít người vẫn nhầm lẫn cho rằng: thực phẩm hửu cơ và thực phẩm sạch cũng như nhau.

.

Theo quy định, các sản phẩm đạt tiêu chuẩn Organic sẽ được gắn nhãn “Certified Organic Foods”. Chứng nhận này được gắn trên sản phẩm khi và chỉ khi sản phẩm đó: không chứa hormone, không chứa thuốc trừ cỏ, không chứa phân bón hóa học, không bị biến đổi gen, không bị chiếu xạ tiệt trùng, không có hương liệu, phẩm màu và chất bảo quản. Tất cả các thực phẩm Organic đều chịu sự kiểm soát liên tục, gắt gao từ khâu đầu đến khâu cuối cùng.

Và những thực phẩm được gắn mác hữu cơ Organic phải được kiểm soát và kiểm nghiệm bởi các tổ chức có thẩm quyền và uy tín về lĩnh vực này.

 

Trên thế giới có nhiều tổ chức đưa ra các tiêu chí khác nhau để chứng nhận một sản phẩm có nguồn gốc từ thiên nhiên. Ví dụ như chúng ta có chứng chỉ USDA của Mỹ chia sản phẩm hữu cơ thành 4 nhóm chính là: 

·        - True Organic: 100% thành phần từ hữu cơ.

·        - Sản phẩm hữu cơ: 95% thành phần hữu cơ trở lên.

·        - Sản phẩm được làm với thành phần hữu cơ: 70% - 94% thành phần hữu cơ.

·        - Sản phẩm có thành phần hữu cơ: 70% thành phần hữu cơ trở xuống.

Chứng chỉ NASAA của Úc quy định về việc các sản phẩm không sử dụng các thành phần hóa học lẫn hữu cơ có chứa chất gây biến đổi gene ở người. Chứng chỉ này thường áp dụng với các sản phẩm làm đẹp như mỹ phẩm, dầu gội, sữa tắm,...

Ở Việt Nam thực phẩm hữu cơ chưa được bày bán rộng rãi, thường chỉ có ở các cửa hàng chuyên bán thực phẩm hữu cơ.

Nếu bạn quan tâm nhiều đến sức khỏe, muốn sử dụng thực phẩm hữu cơ không chứa hóa chất, phụ gia, bạn có thể chọn mua thực phẩm hữu cơ ở các cửa hàng uy tín hoặc tự thực hiện trồng rau, nuôi gà vịt tại nhà.

Trong điều kiện ô nhiễm môi trường nặng nề ở Việt Nam do đó việc sử dụng thực phẩm hữu cơ (organic) lại càng cấp thiết hơn bao giờ hết nhất là đối với người cao tuổi sức đề kháng giảm so với các nhóm tuổi khác. Hệ miễn dịch của người cao tuổi hoạt động kém.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét