GIAI THOẠI
VỀ HOA HẬU ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM
Trước năm 1975, Sài Gòn nói riêng và
Nam Kỳ Lục Tỉnh nói chung, có rất nhiều người đẹp mà nhan sắc đã đi vào giai
thoại.
Điều kỳ lạ chính là, một trong những
nhan sắc đã được tấn phong danh hiệu "Hoa hậu Việt Nam" lại khá kín
tiếng và không mấy nổi bật so với người đẹp Đặng Tuyết Mai (vợ của tướng Nguyễn
Cao Kỳ) hay nữ diễn viên Thẩm Thúy Hằng.
Trao đổi với nhiều đồng nghiệp lớn
tuổi, người viết phần nào có được tư liệu khá chính xác về cuộc đời của hoa hậu
đầu tiên tại Việt Nam này. Bà tên là Công Thị Nghĩa, nhưng cái tên quen thuộc
hơn với đám đông lại là Thu Trang.
Văn sĩ trở thành hoa hậu
Bà Công Thị Nghĩa sinh năm 1932, quê
gốc tại Hà Nội. Học xong bậc tiểu học, bà theo gia đình vào Sài Gòn sinh sống để
thuận lợi cho công việc của thân phụ bà.
Ngay từ thời con gái, bà đã đam mê
viết văn, viết báo. Đặc biệt là nghiên cứu về sử học (sau này, bà là tiến sĩ sử
học, hiện định cư tại Pháp).
Năm 20 tuổi, bà tham gia vào tổ chức
Việt Minh, với nhiệm vụ là hoạt động điệp báo trong nội thành Sài Gòn. Tháng
7/1952, mật thám của Pháp phát hiện ra vai trò của bà trong tổ chức, bà bị bắt
giam tại bót Catinat (nay là Sở Văn hóa, Thể thao và Du Lịch TP HCM - đường Đồng
Khởi, quận 1).
Thụ án ở bót này một thời gian, bà bị
chuyển qua Khám Lớn - Sài Gòn (nay là Thư viện Tổng hợp TP Saigon - đường Lý Tự
Trọng, quận 1). Khoảng cách giữa bót Catinat và Khám Lớn là không xa.
Những ngày thụ án của bà chỉ được
khép lại khi luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã thắng lý quan tòa trong phiên xử về tội
danh mà bà mắc phải.
Ra tù, với vốn chữ nghĩa sẵn có, bà
tham gia một khóa học ngắn và bắt đầu theo nghề ký giả. Bà chuyên viết mảng, mà
hiện tại tạm gọi là văn hóa - nghệ thuật. Bà ký bút danh Thu Trang, đây là bút
danh chính cho tất cả các trang viết, nghiên cứu lịch sử của bà.
Năm 1955, chính quyền Ngô Đình Diệm
phát đi thông tin sẽ tổ chức một cuộc thi hoa hậu, thành phần ban giám khảo của
cuộc thi này bao gồm nhiều nhân sĩ, trí thức, nhà báo.
Trong một lần đến phỏng vấn thành phần
ban giám khảo để đưa tin, vài thành viên ban giám khảo đã khuyên bà "Cô đẹp
như vậy, nên đăng ký tham gia cuộc thi này". Nghe rủ rê, bà đăng ký tham
gia với mục đích ban đầu là… để vui.
Ngày 20/5/1955, nhân lễ Kỷ niệm Hai
Bà Trưng, tại rạp hát Lido ở khu Chợ Lớn, cuộc thi Hoa hậu Việt Nam chính thức
được diễn ra. Gần như tất cả mỹ nhân đang sinh sống tại Sài Gòn và các tỉnh miền
Nam đều xuất hiện tại cuộc thi này.
Do quan niệm ở thời điểm đó, nên
không có phần thi áo tắm trong suốt cuộc thi hoa hậu.
Xuất sắc vượt qua hàng loạt nhan sắc
khác, Thu Trang chính thức đăng quang vương miện Hoa hậu. Á hậu 1 thuộc về cô
Nguyễn Thị Ninh, người Hà Nội di cư vào Nam và Á hậu 2 là cô Ngô Yên Thu, người
Cần Thơ.
Bà Thu Trang đoạt ngôi Hoa hậu, với
những thông số mà xét ở thời điểm này thì rất khó để đạt chuẩn, nhất là về chiều
cao. Bà chỉ cao 1,61m, số đo 3 vòng là 86-62-88.
Phần thưởng cho danh hiệu Hoa hậu mà
bà sở hữu là một chiếc môtô hiệu Lambretta, kiềng vàng, nước hoa và nhiều loại
mỹ phẩm danh tiếng khác.
Khi tôi gọi điện thoại tham vấn phần
tư liệu về bà, nhà báo Hà Đình Nguyên (Báo Thanh Niên) cho biết:
"Lambretta thời điểm đó có giá lắm, mà anh không nhớ giá chính xác của nó
là bao nhiêu. Chỉ biết đó là dòng xe hai bánh cao cấp bậc nhất. Vì chiếc xe
này, mà bà Thu Trang được nhiều người gọi đùa là "Hoa hậu Lambretta".
Sau khi trở thành Hoa hậu, cuộc đời
bà bước sang một trang mới. Cũng như trào lưu bây giờ, bà trở thành nữ diễn
viên trong nhiều bộ phim của Sài Gòn thời điểm đó.
Năm 1956, bà đảm nhiệm các vai diễn
trong nhiều bộ phim, như "Chúng tôi muốn sống" (đạo diễn Vĩnh Noãn),
“Lục Vân Tiên” (đạo diễn Tống Ngọc Hạp)…
Mối tình không lối thoát với đạo diễn
Tống Ngọc Hạp
Đầu năm 1957, bà cùng đạo diễn Tống
Ngọc Hạp mang theo bộ phim Lục Vân Tiên sang Nhật để làm hậu kỳ. Đồng thời,
cũng là để tham gia Đại hội Điện ảnh châu Á đang được tổ chức tại đây.
Gần một tháng ở Nhật cùng với đạo diễn
Tống Ngọc Hạp, lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, giữa bà và đạo diễn nảy sinh tình
cảm. Chuyện gì đến cũng đến, bà có mang.
Trong cuốn hồi ký của mình, bà có thổ
lộ khá chi tiết về mối tình không lối thoát này, bà viết: "Tới tuổi 25 tôi
mới thành đàn bà trong hoàn cảnh bi thảm. Bị đưa vào những tình huống mà tôi cảm
nhận là mình đã không thể tránh. Khi người đàn ông đam mê, nên dễ bị say trong
nỗi cuồng điên man dại?
Hay chính tôi là một đối tượng có những
nét gì khó gần, quá giữ gìn càng gây kích thích trong sự phải chiếm đoạt? Phải
chinh phục do tự ái của đàn ông tính, pha lẫn với ít nhiều tưởng tượng là tình
yêu? (...)
Ngang trái thay, tôi đã không biết
abc gì trên phương diện tình dục. Tôi có thai ngay trong tháng đầu tại Tokyo
(…) Chúng tôi đã sống trong thảm cảnh kế tiếp khi về tới Sài Gòn cuối năm 1957.
Thật là cả một cơn giông bão phũ
phàng đổ ập xuống tôi khi vừa bắt đầu làm mẹ. Xã hội Việt Nam thời ấy chưa có
chút vị tha nào cho những sự kiện như vậy".
Về lại Sài Gòn, bà liên tiếp hứng chịu
sự chỉ trích của dư luận. Đơn giản, đạo diễn Tống Ngọc Hạp đã có vợ và con. Mặc
cho điều đó, bà vẫn kiên quyết giữ lại đứa con. Sau này, bà vẫn cho con theo họ
của bố, bà đặt tên là Tống Ngọc Vân Tiên.
Cái tên như lưu dấu
kỷ niệm về tình cảm mà bà dành cho đạo diễn Tống Ngọc Hạp. Chắc chắn, đó là
tình yêu chân thành và đầy vị tha. Rất nhiều năm sau, bà vẫn không mở miệng oán
trách vị đạo diễn này bất cứ lời nào.
Là một mỹ nhân, lại đang trên đà
danh vọng, đột nhiên lâm vào tình cảnh "không chồng mà có con", thế
nhưng không vì vậy mà sức quyến rũ của bà đối với người khác giới suy chuyển. Một
trong những người đàn ông rất nổi tiếng mê đắm bà đến quên ăn quên ngủ chính
là… thi sĩ Bùi Giáng.
Giới văn nghệ sĩ ở Sài Gòn đoán chắc
rằng câu thơ đầy lạ lùng và nổi tiếng của Bùi Giáng là "Còn hai con mắt,
khóc người một con" chính là viết cho riêng bà. "Khóc người một
con", tức là thương cảm cho người phụ nữ có một con. Chứ không liên quan
gì đến chuyện… nhãn cầu. Tất nhiên, với chữ nghĩa của một thi sĩ như Bùi Giáng,
thì ai suy nghĩ sao… cũng được.
Ngoài việc bà là "tác nhân
chính" cho câu thơ trên cùa Bùi Giáng, thì thi sĩ Bùi Giáng còn viết nhiều
bài thơ khác cho bà, có bài công bố, có bài không công bố. Trong tập "Mưa
nguồn" của thi sĩ Bùi Giáng, in năm 1962, ông có viết tặng bà như sau:
"Không biết nữa trời tròn hay
méo
Chỉ hôm nay là nhan sắc hôm nay
Anh ngó lên trời mây gió gửi nhau bay
Trời bên kia/ Nhan sắc ở bên
này".
Họa sĩ Bửu Ý, có công bố bài thơ do
họa sĩ chép lại mà thi sĩ Bùi Giáng làm riêng cho bà với tựa đề chính là Thu
Trang, với những câu thấm đẫm tình cảm tuyệt vọng lẫn hờn trách,
"Trang của tờ giấy cũ
Của vầng tóc ban đầu
Trang của hồi vàng tụ
Về mệt mỏi mai sau
Anh nhớ em vô cùng
Đất sầu không xiết kể
Anh kêu gọi mông lung
Trang ồ, Trang rất tệ".
Sang Pháp định cư
Với đạo luật 10/59, chính quyền Ngô
Đình Diệm bắt đầu quá trình xét lại tội danh với tất cả những người từng tham
gia cách mạng. Nhiều đồng chí từng hoạt động chung với bà, khuyên bà nên rời khỏi
Sài Gòn càng sớm càng tốt để tránh sự trả thù.
Năm 1961, nhận được lời mời tham dự
tuần lễ phim ảnh tại Pháp, bà đã rời Sài Gòn và tìm cách định cư lâu dài tại đất
nước này.
Sang Pháp, bà không tham gia bất cứ
hoạt động nghệ thuật cũng như điện ảnh nào. Mà thay vào đó, bà quay trở lại thú
đam mê của mình thời con gái là viết và nghiên cứu lịch sử. Bà đăng ký theo học
chính quy.
Năm 1978, bà bảo vệ thành công đề
tài "Những hoạt động của Phan Châu Trinh" và trở thành tiến sĩ sử học
tại Đại học Paris VII.
Ngoài ra, bà còn viết nhiều sách
nghiên cứu về quá trình hoạt động của nhiều nhà cách mạng khác. Nghiên cứu của
bà được in thành sách và được dịch ra tiếng Việt.
Vì nhiều lý do khác nhau, trong suốt
thời gian học tập và sinh sống ở Pháp, bà không tiết lộ thân phận hoa hậu của
mình, chỉ một số rất ít người biết bà là hoa hậu đầu tiên của Việt Nam. Sau
này, bà có về Việt Nam để tham gia giảng dạy tại nhiều trường đại học trong nước.
Bà viết trong hồi ký của mình về Bùi
Giáng vào một ngày mưa đến thăm bà, khi thi sĩ biết bà sắp sang Pháp. Bằng cảm
quan của một nghệ sĩ lớn, ông biết bà đi là không trở lại.
Bà viết: "Tôi hơi ngạc nhiên để
ý anh nhìn xuống nền nhà đá hoa. Cả hai im lặng, tôi muốn nói một câu gì đó để
cho có chuyện. Chưa kịp thì anh cúi xuống nhặt đôi dép màu xanh lá mạ của tôi
đi trong nhà cạnh đó, anh nhặt lên và lẳng lặng mở tờ báo gói đôi dép. Rồi anh
đứng lên: Tôi về!".
Có lẽ, đó là lần gặp mặt cuối cùng
giữa bà và thi sĩ Bùi Giáng.
theo
Kiến Thức