
ĐÀN BẦU TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VIỆT
Thời
nhà Lý, Đàn Bầu được dùng để đệm cho người hát xẩm, làm thanh bồi cho các khúc
ca dân dã của nam thanh nữ tú tuổi tâm tình, của người già khắc khổ trong
chuyến hành hương cuộc đời gian nan, của trẻ em hồn nhiên với tuổi thơ đầy bươn
chải.
Lời
ca tiếng nhạc ngân lên như chính khúc tơ lòng, thánh thót nhưng ai oán, thở
than, đầy trầm tư cho kiếp dân quê đói nghèo lam lũ - những "Làn
thảm" của chèo; "Bèo dạt mây trôi" của quan họ; "Nam
ai" xứ Huế...; và vị ngọt ngào của những điệu hát ru, những lời tình tứ ý
nhị "Hoa thơm bướm lượn"; lại cả khi vui nhộn yêu đời với "Trống
cơm", "Con gà rừng"...
Cuộc
sống sinh hoạt của người làng quê xưa, luôn có sự tồn tại của cây đa, giếng
nước, sân đình, những bụi tre già, cánh đồng lúa và đâu đó có cả những giọt đàn
bầu.
Cây
Đàn Bầu xưa tuy ít có mặt trong dàn nhạc Cung Đình, nhưng trong chốn dân gian
vẫn là người bạn thân tình của thôn xóm và luôn có mặt trong đời sống thường
nhật của người lao động Việt Nam. Đàn Bầu luôn tạo được cho mình sức sống mãnh
liệt, phi thường và ngày càng khẳng định vị thế đặc biệt trong đời sống âm nhạc
ngày nay cả trong nước cũng như toàn thế giới.
Qua
muôn trùng sóng gió lịch sử, Đàn Bầu vẫn tồn tại như một minh chứng cho sự sinh
động của tinh hoa văn hóa dân tộc Việt Nam.
Mặc
dù từ thời Lý, Đàn Bầu đã vô cùng phổ biến trong tầng lớp chúng dân nhưng đến
năm 1892, Đàn Bầu mới được những người hát xẩm phía Bắc đưa vào xứ Huế để đệm
đàn cho một số bộ phận vương quan.
Cuối
thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, Vua Thành Thái – một trong ba vị vua yêu nước thời
Pháp thuộc - đã yêu tiếng đàn Bầu như hơi thở quê hương xứ An Nam, lúc đó Đàn
Bầu mới được thay thế đàn tam trong ngũ tuyệt: tranh - tỳ - nhị - nguyệt - bầu,
giữ vai trò là nhạc khí không thể thiếu - với chức năng hòa tấu - trong dàn
nhạc cổ truyền dân tộc.
Trong
đời sống âm nhạc hiện đại ngày nay, Đàn Bầu không chỉ thu mình vẻn vẹn trong
những thể loại âm nhạc truyền thống mà còn vươn mình ra hòa nhập với âm nhạc
đương đại khi kết hợp cùng với Dàn nhạc Giao hưởng để thể hiện rất thành công
các tác phẩm thính phòng hay thậm chí ca khúc nhạc nhẹ trong và ngoài nước như:
Bản
Giao hưởng thơ của nhạc sĩ Nguyễn Xinh, Ouverture của nhạc sĩ Trọng Bằng, Sóng
nhất nguyên của Nguyễn Thiện Đạo, hay tác phẩm “Ave Maria” của Fr.
Schubert,...
Đàn
Bầu Việt Nam đặc sắc chính là do một sáng tạo, một phát hiện, có thể nói ở mức
phát kiến của tổ tiên người Việt, ấy là cách gảy đàn tạo ra "âm bồi",
thứ âm thanh kỳ lạ và mê hoặc không nhạc cụ nào trên đời hơn được.
Nếu
như cao độ của những nốt nhạc phát ra từ đàn Phương Tây như piano hay organ
luôn xác định, thì âm thanh Đàn Bầu lại đọng lại giữa những khoảng cao độ đó và
biến ảo, để rất gần với giọng nói con người.
Nó
là giọng hát của người đã được mượt hóa và ngọt hóa, để ngân lên các cung bậc
sâu thẳm và phong phú vô cùng tận của tâm hồn người, nhưng lại ẩn đi phần ngữ
nghĩa của lời ca, vì thế càng đa nghĩa và thâm sâu tuyệt đỉnh.
Chính
từ ý nghĩa thâm diệu của Đàn Bầu cho nên nó không chỉ đóng vai trò trong âm
nhạc mà còn là một hình tượng rất phổ biến trong những áng văn thơ và cảm hứng
sáng tác của các thi sĩ, nhạc sĩ – những người nặng lòng với cây đàn tri kỷ
này. Những câu thơ tình tứ, nỉ non như:
“Ôi!
Đàn bầu quê tôi! Đàn bầu quê tôi!
Nửa
bầu mà rót hoài không cạn
Một
dây thôi – nói biết bao lời
Cung
thương tha thiết chơi vơi
Cung
trầm sâu lắng… rạng ngời tình quê.”
(Hoàng
Trang)
Cây
Đàn Bầu thật tuyệt mỹ, tựa chiếc “thiên cầm” hiên ngang, sừng sững giữa đất
trời quê hương, tấu lên khúc nhạc hồn thiêng dân tộc.
Có
thể nói, Đàn Bầu như là hiện thân của đất nước và dân tộc Việt Nam. “Giọt đàn
bầu” mềm mại, thon thả như hình dáng đất nước; “Thanh âm đàn bầu” da diết, sâu
lắng như hành trình bôn ba đầy thăng trầm của lịch sử dựng nước và giữ nước;
“Âm
điệu đàn bầu” như tiếng nói thâm trầm, giàu ngữ điệu của con người Việt Nam
chân phương, đằm thắm. Từ một nhạc cụ dân gian cấu trúc đơn sơ, cây Đàn Bầu đã
chiếm một vị trí độc tôn trong lĩnh vực nghệ thuật âm nhạc và trong tâm hồn mỗi
người con Việt.
Đàn
Bầu, đó là sự kết tinh thiêng liêng nhất của truyền thống dân tộc Việt Nam,
nhân cách dân tộc Việt Nam và linh hồn dân tộc Việt Nam.
Theo:
Đặng Quỳnh Anh (hoinhacsi.vn)