Hiển thị các bài đăng có nhãn văn hoá. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn văn hoá. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 26 tháng 3, 2025

Văn hóa mạng xã hội thiếu lành mạnh đáng lo ngai

 

VĂN HÓA MẠNG XÃ HỘI THIẾU LÀNH MẠNH ĐÁNG LO NGAI

Bên cạnh mặt tích cực với những tiện ích vượt trội mà mạng xã hội mang lại thì việc sử dụng mạng xã hội trong giới trẻ cũng nảy sinh không ít vấn đề mà dư luận lo ngại.  

Hành vi phản cảm, ứng xử vô văn hóa

Trên mạng xã hội, các hành vi phản cảm, ứng xử vô văn hóa ngày càng lan tràn: những thông tin lá cải, tin tức hot về giới showbiz, scandal của những người nổi tiếng, các chiêu trò đánh bóng tên tuổi, lăng xê, tung ảnh nóng, hiện tượng ném đá hội đồng, cuồng “like”, comment “bẩn”, háo danh trên mạng, anh hùng bàn phím... ngày càng phổ biến.

 

Văn hóa tranh luận hỗn loạn, lệch lạc, khó kiểm soát     

văn hóa tranh luận đang bộc lộ những khiếm khuyết, lệch lạc… Đây là điều nguy hại cho văn hóa tranh luận, mà nguy hại hơn khi mạng xã hội đang dẫn dắt người ta vào những hành xử như vậy. Bảo thủ về quan điểm, cùng hội chứng đám đông đang đẩy đa số người phát ngôn trên mạng sa vào tình trạng “đặc quyền” quan điểm, không cần tôn trọng đối thủ trong tranh biện, và tha hồ sử dụng lời lẽ thô tục, công kích, thậm chí “chụp mũ” người đối thoại.

Điều này không chỉ làm tổn thương uy tín của bản thân mà còn làm mất đi tinh thần cao cả, trong sáng và cầu thị trong văn hóa tranh luận.

 

Việc xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh gắn liền với đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hóa, phản văn hóa; bảo vệ những giá trị chân - thiện - mỹ.

Do vậy, chấn hưng, phát triển văn hóa chẳng phải điều gì cao siêu, cũng không phải ở đâu xa, mà bắt đầu trước hết ở việc xây dựng con người văn hóa từ những nội dung cụ thể như ứng xử trên mạng xã hội.

------

Đầu năm 2023, Việt Nam có 77,93 triệu người dùng Internet, chiếm 79,1% tổng dân số. Ngoài ra, số lượng người dùng mạng xã hội cũng đạt con số 70 triệu, tương đương với 71% tổng dân số.

Năm 2021, có tới 22% người dùng dành hơn 9 tiếng một ngày để lướt mạng, tăng hơn gấp đôi so với mức 9% năm 2020.

 

ST

 

Thứ Tư, 19 tháng 3, 2025

Ngưỡng mộ thần tượng là một nét đẹp văn hóa, nhưng mê muội thần tượng là một thảm họa

 



NGƯỠNG MỘ THẦN TƯỢNG LÀ MỘT NÉT ĐẸP VĂN HÓA, NHƯNG MÊ MUỘI THẦN TƯỢNG LÀ MỘT THẢM HỌA

 

Ngưỡng mộ thần tượng là sự yêu mến, kính phục, ủng hộ tuyệt đối dành cho người tài hoặc cho một hình mẫu lí tưởng có sức hút mạnh mẽ đối với bản thân mình. Từ lâu, ngưỡng một thần tượng đã được cho là một nét đẹp văn hóa của nhân loại.

 

Nhưng ngày nay, có một bộ phận giới trẻ vì thần tượng mà có thể làm những việc “điên cuồng” không tưởng. Do đó, đã có ý kiến cho rằng “ngưỡng mộ thần tượng là một nét đẹp văn hóa, nhưng mê muội thần tượng là một thảm họa”.

 

Trong khi ngưỡng mộ thần tượng là một biểu hiện tích cực thì mê muội thần tượng thực sự là một thảm họa. Sự mê muội ấy khiến con người mù quáng, thiếu tỉnh táo trong nhận thức, thái quá trong việc bộc lộ tình cảm với thần tượng và điên rồ trong hành động khi họ đứng trên cương vị là fan cuồng.

 

Qua đó ta có thể thấy hai mặt của vấn đề hâm mộ thần tượng. Hâm mộ một cách đúng mực là nét đẹp văn hóa đáng được ca ngợi, nhưng hâm mộ sai cách, mê muội là một hiện tượng xấu mà cùng với đó là những hậu quả hết sức tiêu cực.

 

Đầu tiên, ta có thể khẳng định ngưỡng một thần tượng là một nét đẹp văn hóa vì nó thể hiện nhu cầu được vươn lên, ước mơ hướng tới những tầm cao của con người. Ví dụ như sự ngưỡng mộ của người con dành cho người bố, người mẹ của mình. Trong mắt lũ trẻ, bố, mẹ là người hết sức phi thường, tài năng, không gì là không làm được.

 

Sự ngưỡng mộ đó thúc đẩy ước muốn trưởng thành tài giỏi như bố mẹ của chúng.

Ngoài ra, cũng có thể là sự ngưỡng mộ dành cho những danh nhân tài giỏi hoặc những con người nghị lực vươn lên để thành công.

Qua những con người ấy, ta học tập những đức tính tốt đẹp của họ để bản thân mình trở nên tốt hơn.

 

Khi mến mộ thần tượng, ta luôn hướng mục tiêu, tâm hồn đến những điều tốt đẹp.

Ngược lại với ngưỡng mộ thần tượng, mê muội thần tượng là một thảm họa. Mê muội là khi chủ thể đã bị mất lý trí. Mê muội thần tượng là dạng say mê, tôn sùng một cách thiếu tỉnh táo, thiếu lý trí.

 

Từ đó, người hâm mộ sẽ phạm phải rất nhiều sai lầm cả trong nhận thức lẫn hành động. Một trong các minh chứng cho điều này là việc làm của một bộ phận giới trẻ đã bất chấp mọi giá để có được một tấm vé vào khi các ca sĩ, diễn viên ngoại quốc về Việt Nam lưu diễn.

 

Họ vòi vĩnh cha mẹ của mình, bỏ học để tìm cách kiếm tiền, chỉ vì để được gặp thần tượng một lần.

Không chỉ có vậy, họ còn làm ra những hành động quá khích như không ngại bỏ tiền thuê xe chạy đuổi theo xe của thần tượng, bất chấp nắng mưa ngồi bên ngoài khách sạn chờ thần tượng đi qua, họ xông vào sờ tay, sờ mặt, nắm tóc, kéo áo với suy nghĩ được chạm vào thần tượng một lần.

 

Bản chất của sự ngưỡng mộ, yêu mến thần tượng không phải là điều xấu nhưng sự mê muội, ngưỡng mộ quá khích thì có thể chắc chắn là thảm họa với những hành động, thái độ ứng xử thiếu văn hóa, khác người của những người xưng danh là fan cuồng.

 

Qua ý kiến trên, mỗi người chúng ta cần phải có nhận thức đúng đắn hơn về sự ngưỡng mộ thần tượng để nâng tầm văn hóa cho bản thân, phấn đấu vươn tới những tầm cao mới, từ đó thể hiện được nét đẹp văn hóa của nhân loại.

 

Mỗi cá nhân cần phải nhận thức đúng đắn giữa ngưỡng mộ và mê muội, đừng để cảm xúc khống chế lý trí mà theo đuổi thần tượng một cách mù quáng, làm ra những hành động đáng chê trách, đáng xấu hổ, đánh mất đi những giá trị truyền thống tốt đẹp.

 

ST

 

 

Chủ Nhật, 19 tháng 1, 2025

Đàn Bầu trong đời sống văn hóa Việt

 

ĐÀN BẦU TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VIỆT

Thời nhà Lý, Đàn Bầu được dùng để đệm cho người hát xẩm, làm thanh bồi cho các khúc ca dân dã của nam thanh nữ tú tuổi tâm tình, của người già khắc khổ trong chuyến hành hương cuộc đời gian nan, của trẻ em hồn nhiên với tuổi thơ đầy bươn chải.

Lời ca tiếng nhạc ngân lên như chính khúc tơ lòng, thánh thót nhưng ai oán, thở than, đầy trầm tư cho kiếp dân quê đói nghèo lam lũ - những "Làn thảm" của chèo; "Bèo dạt mây trôi" của quan họ; "Nam ai" xứ Huế...; và vị ngọt ngào của những điệu hát ru, những lời tình tứ ý nhị "Hoa thơm bướm lượn"; lại cả khi vui nhộn yêu đời với "Trống cơm", "Con gà rừng"...

Cuộc sống sinh hoạt của người làng quê xưa, luôn có sự tồn tại của cây đa, giếng nước, sân đình, những bụi tre già, cánh đồng lúa và đâu đó có cả những giọt đàn bầu.

Cây Đàn Bầu xưa tuy ít có mặt trong dàn nhạc Cung Đình, nhưng trong chốn dân gian vẫn là người bạn thân tình của thôn xóm và luôn có mặt trong đời sống thường nhật của người lao động Việt Nam. Đàn Bầu luôn tạo được cho mình sức sống mãnh liệt, phi thường và ngày càng khẳng định vị thế đặc biệt trong đời sống âm nhạc ngày nay cả trong nước cũng như toàn thế giới.

Qua muôn trùng sóng gió lịch sử, Đàn Bầu vẫn tồn tại như một minh chứng cho sự sinh động của tinh hoa văn hóa dân tộc Việt Nam.

Mặc dù từ thời Lý, Đàn Bầu đã vô cùng phổ biến trong tầng lớp chúng dân nhưng đến năm 1892, Đàn Bầu mới được những người hát xẩm phía Bắc đưa vào xứ Huế để đệm đàn cho một số bộ phận vương quan.

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, Vua Thành Thái – một trong ba vị vua yêu nước thời Pháp thuộc - đã yêu tiếng đàn Bầu như hơi thở quê hương xứ An Nam, lúc đó Đàn Bầu mới được thay thế đàn tam trong ngũ tuyệt: tranh - tỳ - nhị - nguyệt - bầu, giữ vai trò là nhạc khí không thể thiếu - với chức năng hòa tấu - trong dàn nhạc cổ truyền dân tộc.

Trong đời sống âm nhạc hiện đại ngày nay, Đàn Bầu không chỉ thu mình vẻn vẹn trong những thể loại âm nhạc truyền thống mà còn vươn mình ra hòa nhập với âm nhạc đương đại khi kết hợp cùng với Dàn nhạc Giao hưởng để thể hiện rất thành công các tác phẩm thính phòng hay thậm chí ca khúc nhạc nhẹ trong và ngoài nước như:

Bản Giao hưởng thơ của nhạc sĩ Nguyễn Xinh, Ouverture của nhạc sĩ Trọng Bằng, Sóng nhất nguyên của Nguyễn Thiện Đạo,  hay tác phẩm “Ave Maria” của Fr. Schubert,...

Đàn Bầu Việt Nam đặc sắc chính là do một sáng tạo, một phát hiện, có thể nói ở mức phát kiến của tổ tiên người Việt, ấy là cách gảy đàn tạo ra "âm bồi", thứ âm thanh kỳ lạ và mê hoặc không nhạc cụ nào trên đời hơn được.

Nếu như cao độ của những nốt nhạc phát ra từ đàn Phương Tây như piano hay organ luôn xác định, thì âm thanh Đàn Bầu lại đọng lại giữa những khoảng cao độ đó và biến ảo, để rất gần với giọng nói con người.

Nó là giọng hát của người đã được mượt hóa và ngọt hóa, để ngân lên các cung bậc sâu thẳm và phong phú vô cùng tận của tâm hồn người, nhưng lại ẩn đi phần ngữ nghĩa của lời ca, vì thế càng đa nghĩa và thâm sâu tuyệt đỉnh.

Chính từ ý nghĩa thâm diệu của Đàn Bầu cho nên nó không chỉ đóng vai trò trong âm nhạc mà còn là một hình tượng rất phổ biến trong những áng văn thơ và cảm hứng sáng tác của các thi sĩ, nhạc sĩ – những người nặng lòng với cây đàn tri kỷ này. Những câu thơ tình tứ, nỉ non như:

“Ôi! Đàn bầu quê tôi! Đàn bầu quê tôi!

Nửa bầu mà rót hoài không cạn

Một dây thôi – nói biết bao lời

Cung thương tha thiết chơi vơi

Cung trầm sâu lắng… rạng ngời tình quê.”

                                     (Hoàng Trang)

Cây Đàn Bầu thật tuyệt mỹ, tựa chiếc “thiên cầm” hiên ngang, sừng sững giữa đất trời quê hương, tấu lên khúc nhạc hồn thiêng dân tộc.

Có thể nói, Đàn Bầu như là hiện thân của đất nước và dân tộc Việt Nam. “Giọt đàn bầu” mềm mại, thon thả như hình dáng đất nước; “Thanh âm đàn bầu” da diết, sâu lắng như hành trình bôn ba đầy thăng trầm của lịch sử dựng nước và giữ nước;

“Âm điệu đàn bầu” như tiếng nói thâm trầm, giàu ngữ điệu của con người Việt Nam chân phương, đằm thắm. Từ một nhạc cụ dân gian cấu trúc đơn sơ, cây Đàn Bầu đã chiếm một vị trí độc tôn trong lĩnh vực nghệ thuật âm nhạc và trong tâm hồn mỗi người con Việt.

Đàn Bầu, đó là sự kết tinh thiêng liêng nhất của truyền thống dân tộc Việt Nam, nhân cách dân tộc Việt Nam và linh hồn dân tộc Việt Nam.

Theo: Đặng Quỳnh Anh (hoinhacsi.vn)