Thứ Bảy, 6 tháng 4, 2024

Bên trong ‘trang trại cày lượt view’ trên các mạng xã hội

 


Một "trang trại cày lượt truy cập" - Ảnh: Jack Latham 

BÊN TRONG ‘TRANG TRẠI CÀY LƯỢT VIEW’ TRÊN CÁC MẠNG XÃ HỘI

 

Đài CNN cho biết năm ngoái, nhiếp ảnh gia người Anh Jack Latham dành ra 1 tháng ở Hà Nội để ghi lại hoạt động của 5 cơ sở chuyên giúp tăng lượt truy cập và mức độ tương tác trên mạng xã hội.

 

“Khi sử dụng mạng xã hội, hầu hết mọi người đều không muốn gì ngoài được chú ý.

Với mạng xã hội thì sự chú ý của chúng ta là sản phẩm cho đơn vị quảng cáo và đơn vị bán hàng”, ông Latham chia sẻ với CNN.

 

Vào những năm 2000, sự phổ biến của mạng xã hội như Facebook, Twitter (nay là X) làm sản sinh nhu cầu quản lý tài khoản một cách chuyên nghiệp.

Doanh nghiệp cũng bắt đầu chạy đua gia tăng độ bao phủ lẫn tầm ảnh hưởng trong thế giới số. Dù chưa rõ “trang trại cày lượt truy cập” xuất hiện từ lúc nào, nhưng giới chuyên gia công nghệ vào năm 2007 từng cảnh báo về hình thức hoạt động này ở các quốc gia thu nhập thấp.

 

Sang những thập niên tiếp theo, “trang trại cày lượt truy cập” bùng nổ về số lượng đặc biệt là ở châu Á (Ấn Độ, Bangladesh, Indonesia, Philippines…).

Bất chấp các nước tìm cách hạn chế, các "trang trại" vẫn tiếp tục nở rộ nhanh chóng và thường tập trung ở nơi mà chi phí lao động cùng giá điện thấp cho phép vận hành hàng trăm thiết bị cùng lúc.

 

Giống công ty khởi nghiệp ở Thung lũng Silicon

5 “trang trại cày lượt truy cập” mà ông Latham tiếp xúc nằm trong căn hộ hoặc khách sạn ngoại thành Hà Nội. Một số có cách thiết lập truyền thống với hàng trăm điện thoại được vận hành thủ công. Số khác sử dụng cách mới: điện thoại không có màn hình lẫn pin được nối dây và liên kết đến máy tính.

 

Một cơ sở là cả gia đình cùng làm, còn lại hoạt động giống doanh nghiệp. Đa số người làm cho “trang trại cày lượt truy cập” khoảng 20 - 30 tuổi. Ông Latham cho biết: “Trông họ giống những công ty khởi nghiệp ở Thung lũng Silicon vậy.

 

Có rất nhiều thiết bị, điện thoại dựng thành tường. Chỉ cần một người để kiểm soát số lượng lớn điện thoại. Một người có thể nhanh chóng làm được việc của 10.000 người. Cơ sở vừa vắng vẻ lại vừa đông đúc”.

Trong “trang trại cày lượt truy cập”, mỗi cá nhân phụ trách một nền tảng. Ví dụ, một “nông dân” sẽ chịu trách nhiệm đăng nội dung và bình luận trên tài khoản Facebook hoặc thiết lập YouTube nơi họ đăng và xem video liên tục.

TikTok hiện là nền tảng phổ biến nhất tại 5 cơ sở ông Latham tiếp xúc.

 

Các “nông dân” cho biết dịch vụ của mình có giá chưa đến 0,01USD/lượt truy cập. Họ xem đây là công việc hợp pháp.

Lúc nghiên cứu về hoạt động này, ông Latham phát hiện thuật toán các mạng xã hội sử dụng thường đề xuất video có lượt truy cập tăng vọt.

 

Tạp chí Một thế giới

 


Thứ Sáu, 5 tháng 4, 2024

Thiền định là một lối sống

 

THIỀN ĐỊNH LÀ MỘT LỐI SỐNG

 

Hòa thượng Tomo: Thiền định là một lối sống chứ không phải một phương pháp để thực hành trong những lúc rảnh rỗi hay những khi không có việc gì để làm.

Đây là một điểm hết sức quan trọng của Đại Thừa, vì Thiền chính là sống, sống đúng, sống thật với ý nghĩa của sự sống.

 

Tiểu Thừa và các môn phái Yoga của Ấn Độ thường tách rời thiền định (meditation) ra khỏi cuộc sống và biến nó thành một phương pháp (technique) hơn là một lối sống.

 

Vì không phải là một kỹ thuật hay phương pháp, nên người ta không thể học hỏi nó qua sách vở mà phải có sự hướng dẫn trực tiếp của một vị thầy. Do đó, thiền định còn là một kinh nghiệm tâm linh giữa thầy và học trò mà trong đó, người học trò cố gắng đặt tâm thức của mình hòa hợp vào tâm thức của vị thầy.

 

Để đạt đến điều này, người tu thiền phải luôn luôn nghĩ đến đức Phật như ngài đang hiện diện bên trong họ chứ không phải ở bên ngoài.

Chỉ khi nào người tu thiền ý thức rõ rệt rằng đức Phật ngự trị ở bên trong, thì họ mới có thể hiểu trọn ý nghĩa câu thần chú linh thiêng “Om Mani Padme Hum”.

 

Chỉ khi lòng từ bi hoàn toàn khai mở như một đóa hoa Sen (Padme) vươn cao lên khỏi vũng bùn và bắt đầu khai hoa, thì hương thơm của Trí Tuệ (Mani) mới bắt đầu tỏa ra khắp nơi và mọi hành động Thân–Khẩu–Ý (Om) mới thật sự phản ảnh trọn vẹn đúng cái ý nghĩa cao đẹp nhất của Sự Sống (Hum).

 

Khi trí tuệ đã phát triển trọn vẹn, thì làm sao mình có thể lầm lạc, có thể hành động trái với luật thiên nhiên, trái với chân lý được?

Khi mọi vật đều sáng tỏ, không còn vô minh, tất cả mọi sự thật đều phơi bày rõ ràng thì đâu còn mê đắm, đâu còn khổ đau.

 

Khi từ bi và trí tuệ đều phát triển trọn vẹn thì không còn sự phân biệt nữa. Từ bi cũng là trí tuệ mà trí tuệ cũng là từ bi, và người tu đã chứng đắc, đã đi vào con đường Trung Đạo, thấy rõ bản thể chân như của sự vật: Tất cả đều là một, hình tướng tuy khác nhưng thể tánh chỉ có một.

Đó chính là ý nghĩa câu kinh “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”.

 

Trích:Đường mây qua xứ tuyết

 

 

Vua Thành Thái lên Kim Long chọn quý phi

 


 Bà Nguyễn Hữu Thị Nga – Huyền phi của vua Thành Thái. 

 

VUA THÀNH THÁI LÊN KIM LONG CHỌN QUÝ PHI

Hơn 100 năm đã qua, nhưng giai thoại về vua Thành Thái cải trang thành một người dân bách tính liều mình lên Kim Long (nay là phường Kim Long, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế) vào một ngày Xuân để tìm chọn quý phi vẫn được người dân xứ Huế nhắc đến. Nhưng ngày nay ít ai biết được rõ sự thật trong đó...

Nét đẹp của cô gái Kim Long

Bắt đầu từ năm Bính Tý 1636, trải qua các đời chúa Nguyễn Phúc Lan và chúa Nguyễn Phúc Tần, Kim Long trở thành thủ phủ của chúa Nguyễn và là nơi phồn hoa Đô hội bậc nhất Đàng Trong. 51 năm sau (Đinh Mão 1687), chúa Nguyễn Phúc Thái đưa thủ phủ về Phú Xuân (nơi có Kinh thành Huế ngày nay) để tránh lũ lụt,

Kim Long trở thành nơi những người hoàng tộc, các gia đình quan lại lập phủ thờ, nhà vườn. Chỉ tính riêng ở khu vực Phú Mộng thuộc phường Kim Long còn gần như nguyên vẹn 60 ngôi nhà rường cổ.

 

Người con gái Kim Long xưa có dáng người mảnh khảnh, mái tóc thề ôm trọn bờ vai, đôi mắt đen to tròn, ánh nhìn day dứt, lại phảng phất nét lạnh lùng.

Ngày xưa, mái tóc thề là biểu hiện cho sự trinh khôi của những cô gái xứ Huế. Khi chưa có chồng, tóc con gái Huế thông thường là buông xoã tự do. Tóc phủ xuống bờ vai, xuống lưng người và nhiều khi hơn thế, có những người còn rũ xuống gót chân.

Khi đã có người thương, mái tóc thề càng nói lên sự chung thủy của cô gái Huế đối với chàng trai, nghĩa là luôn “một lòng một dạ”, không có “ý chi” với ai khác nữa.

 

Giọng nói của những cô gái Kim Long lại nhỏ nhẹ, dễ thương, điển hình cho âm giọng trọng tình cảm của người Huế. Một nhà thơ đã viết một cách hình tượng

“Em ơi giọng Huế có chi. Mà trong hoa nắng thầm thì cơn mưa”. Thậm chí, chỉ một tiếng “Dạ thưa” ngọt lịm thôi cũng đủ để mê say lòng người.

Bởi thế, không chỉ những công tử hào hoa muốn chiêm ngưỡng dung nhan mỹ lệ mà đến cả những bậc quân vương xứ Huế cũng không tiếc thời giờ để đến Kim Long tìm cho bằng được người trong mộng.

 

Đã hơn 100 năm nhưng giai thoại về vua Thành Thái cải trang thành một người dân bách tính liều mình lên Kim Long vào một ngày Xuân để tìm chọn quý phi vẫn được người dân xứ Huế nhắc đến.

Người đời kể lại rằng, vào một ngày Xuân, vua Thành Thái vi hành lên Kim Long kiếm tìm khắp nơi vẫn chẳng gặp ai vừa ý, vua đành thuê một chiếc đò ra về.

 

Đò vừa ghé vào, mới bước lên, nhà vua trông thấy cô lái đò đôi má ửng hồng rất có duyên. Lòng xao xuyến, mê mẩn, vua liền hỏi: “Nì, o tê! O có muốn lấy vua không?”.

Cô lái đò nhìn ông khách lạ đời thỏ thẻ nói: “Đừng có bậy bạ mà họ lấy đầu chừ!”. Lại càng thấy đáng yêu hơn, vua dấn tới: “Tui nói thiệt đó, o có muốn lấy vua thì tui làm mối cho!”.

Câu chuyện còn dài nữa nhưng kết cục thì ai cũng rõ, cô gái lái đò Kim Long kia đã “vô Nội”, làm quý phi cho ông vua yêu nước chống Pháp. 

 

Hai quý phi của vua Thành Thái. Ảnh chụp năm 1907 ở Huế.

 

Thực tế, các cô gái Kim Long được làm vợ vua khá nhiều. Chẳng hạn, Vĩnh Quốc Công Nguyễn Hữu Độ có ba cô con gái và cô nào cũng rất xinh đẹp, một gả cho vua Đồng Khánh, một gả cho em trai vua Hàm Nghi, còn lại người con gái út Nguyễn Hữu Thị Nga rất mỹ miều nên vua Thành Thái hay đi xe song mã đến nhà chơi. Sau này, bà Nga cũng được vua Thành Thái đưa vào cung, phong làm Huyền phi, sinh hạ được hai người con.

 

Hiện nay, Kim Long vẫn còn lưu dấu tích tên xóm Cồn Súng, Thượng Dinh, Trung Dinh, Hạ Dinh hay Nghinh Xuân, nơi ở của cung tần mỹ nữ một thời. Kim Long cũng là nơi tập trung hầu hết các phủ đệ của họ hàng bên vợ các vua nhà Nguyễn như phủ Đức Quốc Công Từ, phủ Vĩnh Quốc Công…

 

Những nữ binh Kim Long yêu nước

 

Nhưng sự thật là như thế nào? Đó là vua Thành Thái đã lập ra một đội nữ binh đặc biệt, đa số là những o con gái Kim Long mỹ miều nhằm che mắt Pháp.

Vua Thành Thái đã thành công khi đánh lạc hướng bọn giặc cướp nước rằng mình cũng là một vị vua mê sắc dục tột cùng, không lo lắng chi đến triều chính, để mưu đại sự cứu nước cứu dân.

 

Việc tuyển mộ và huấn luyện được tổ chức hết sức bí mật. Vua Thành Thái cho lính cận vệ thân tín đến tiếp xúc với những cô gái Kim Long và gia đình các cô. Nếu được chấp thuận, vua cho “dàn cảnh” bắt cóc, bằng cách hẹn ngày giờ và địa điểm gặp gỡ, rồi lính cận vệ, hoặc chính nhà vua đem xe song mã đến đón họ và đưa vào cung cấm.

Để bảo mật, các cô gái bị “bắt cóc” thường được đưa vào Tử Cấm Thành bằng cửa Hữu của thành Nội, gần làng Kim Long, vì con đường chạy dọc theo bên ngoài Hoàng thành dẫn đến cửa Hữu rất vắng vẻ vào ban đêm, hai bên đường lại không có nhà cửa của dân chúng.

 

Bởi thế dân gian lan truyền câu ca: “Kim Long có gái mỹ miều. Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi” cũng nhằm nói về điều phi thường này của vua Thành Thái, một vị vua có lòng yêu nước vô hạn.

Để tránh những con mắt cú vọ của thực dân Pháp nên vua Thành Thái phải tỏ ra là một vị vua đam mê gái đẹp.

 

Một số tài liệu ghi rằng vua Thành Thái đã chiêu nạp được 4 đội, mỗi đội 50 người, đội trước huấn luyện xong thì trở về gia đình và nạp đội mới, khi có thời cơ sẽ cùng nổi dậy chống Pháp. Nhưng sự việc cuối cùng bị lộ khi tên Thượng thư Bộ Lại và “Cơ mật viện” báo cho tên Khâm sứ Pháp Levécque.

 

Sau đó, tên Khâm sứ Pháp Levécque nói thẳng là đã biết vua Thành Thái có ý đồ chống Pháp nên không để vua ở ngôi được. Hắn nói vua Thành Thái muốn tại vị thì vua phải ký vào một tờ giấy xin lỗi, tuyên bố với quốc dân là có âm mưu chống lại nước Pháp, nay phải “thành thực hồi tâm”. Nhưng vua Thành Thái đã ném tờ tuyên cáo thảo sẵn ấy xuống đất.

 

Ngày 3-9-1907, “triều thần” theo lệnh của Pháp vào điện Càn Thành dâng vua Thành Thái “dự thảo” chiếu thoái vị, có chữ ký của các đại thần, với nội dung vua Thành Thái vì lý do sức khoẻ không bảo đảm xin tự nguyện thoái vị.

Xem xong bản “dự thảo”, vua Thành Thái chỉ cười, ghi ngay hai chữ “phê chuẩn”.

 

Ngày 12-9-1907, vua Thành Thái bị thực dân Pháp đưa đi quản thúc ở Vũng Tàu. Đến năm 1916 vua bị đày ra đảo Réunion cùng với con trai của mình là vua Duy Tân, cũng là một vị vua yêu nước chống Pháp.

 

Huế, ngày 4-1-2019 

Nguyễn Văn Toàn