Thứ Bảy, 28 tháng 10, 2023

Ai là người quan trọng nhất giữa cha mẹ, vợ chồng, con cái.

 

AI LÀ NGƯỜI QUAN TRỌNG NHẤT GIỮA CHA MẸ, VỢ CHỒNG, CON CÁI.

Cha mẹ, vợ chồng, con cái là những người thân thiết nhất của chúng ta, bảo chọn ra một người khó dứt bỏ nhất là chuyện không hề dễ dàng. Nhưng nếu tình thế bắt buộc bạn phải đưa ra lựa chọn ấy thì làm sao đây?

Ở một lớp học nghiên cứu sinh, lúc sắp tan giờ, giáo sư nói với các học trò của mình rằng: "Tôi cùng các em chơi một trò chơi, ai bằng lòng phối hợp một chút nào?".
Một cô gái bước lên trên bục giảng. Vị giáo sư nói: "Em hãy viết lên bảng tên của 10 người mà em khó dứt bỏ nhất". Cô gái làm theo lời thầy, trong 10 người đó có tên của người thân, bạn bè, đồng nghiệp và hàng xóm của cô.

Vị giáo sư nói: "Tốt rồi! Bây giờ em hãy gạch bỏ 1 người mà em cho là không quan trọng nhất". Cô đã gạch bỏ tên một người hàng xóm của mình. Giáo sư lại nói: "Xin em hãy gạch tiếp 1 người nữa". Cô gái lại gạch bỏ tên của một đồng nghiệp.
Vị giáo sư tiếp tục: "Xin em hãy gạch tiếp thêm 1 người nữa". Cô lại gạch bỏ thêm một người. Cuối cùng, trên bảng chỉ còn lại 4 người: Người chồng, bố mẹ và đứa con của cô.

Bầu không khí trong phòng lúc này đột nhiên tĩnh lặng hẳn. Cả lớp đều im lặng đưa mắt nhìn thầy giáo của mình, cảm thấy đây dường như đã không còn là một trò chơi nữa. Vị giáo sư bình tĩnh nói: "Xin hãy gạch tiếp 1 người nữa".

Cô gái rất lưỡng lự, thật khó khăn khi phải đưa ra lựa chọn. Cô đưa viên phấn lên, gạch bỏ tên của người chồng mình.

"Hãy gạch tên 1 người nữa", giọng nói của vị giáo sư lại vang lên. Cô gái ngẩn người ra, bàn tay run rẩy đưa viên phấn lên chầm chậm gạch bỏ tên của đứa con.
Sau đó, hai hàng nước mắt ứa ra, cô khóc nấc lên thành tiếng, vẻ mặt trông vô cùng đau khổ.

Giáo sư đợi cô bình tĩnh lại, hỏi rằng: "Người thân thiết đi cùng em cả đời hẳn phải là chồng và con cái mới đúng. Người chồng sẽ ở cùng em đến đầu bạc răng long. Còn đứa con là do em dứt ruột sinh ra. Vì sao em lại chọn bố mẹ mình? Chẳng phải ngày tháng của họ đã không còn nhiều nữa, khó có thể ở lại cùng em lâu dài sao?"

Chúng bạn học đều đưa mắt nhìn cô, chờ đợi câu trả lời. Cô bình tĩnh, gạt dòng lệ, từ tốn nói rằng: "Tuy hiện tại chồng em là người thân thiết nhất nhưng rất có thể một ngày nào đó anh ấy sẽ rời bỏ em. Vợ chồng là duyên phận, có đến rồi cũng có đi. Con cái lớn lên rồi cũng sẽ có cuộc sống riêng của mình, em không thể mãi theo bước chân chúng.

Người thật sự em cần trân quý lại chính là cha mẹ. Không có họ thì đã không có em. Họ đã hy sinh cả tuổi xuân để cho em một cuộc đời hạnh phúc nhất có thể. Họ chắc chắn không thể ở cùng em mãi mãi nhưng chính vì thế mà em càng cần phải trân quý hơn. Tháng ngày còn lại không nhiều. Em thực sự chỉ muốn cha mẹ được sống những ngày cuối đời thật vui vẻ, mãn nguyện mà thôi".

Cả lớp đứng dậy vỗ tay rào rào khi cô ngừng lời. Nhiều người đã khóc, nhiều người gật đầu tán thưởng. Vị giáo sư già chừng như cũng xúc động, khẽ đưa chiếc khăn mùi soa lên chấm lệ. Đó là buổi học tuyệt vời nhất ông từng được chứng kiến trong suốt đời đứng trên bục giảng của mình…

*****

Trên đời rất nhiều người sẽ lựa chọn mẹ cha. "Trăm cái thiện, hiếu đứng đầu", người không có hiếu thì thiên hạ không dung, đạo Trời cũng không thứ.

Thực ra hiếu đạo không phải là truyền thống văn hóa chỉ riêng người Á Đông mới có, mới trọng. Ngay cả người phương Tây, người ở các nền văn hóa khác cũng rất hiếu kính với cha mẹ.

Cha mẹ vất vả sinh thành, dưỡng dục chúng ta không phải để cầu chút báo hiếu mà là muốn nhìn thấy chúng ta trưởng thành, sống có đạo đức, trở thành một người thiện lương, có ích cho xã hội. Cha mẹ nào lại mong con mình trở thành kẻ xấu cơ chứ? Ân tình ấy, dẫu báo đáp suốt mấy kiếp người nào đã ai trả nổi?

Còn bạn thì sao? Nếu phải chọn lựa giữa ba người ấy (cha mẹ, con cái và vợ chồng) bạn sẽ chọn ai?

 

 

Thứ Sáu, 27 tháng 10, 2023

3 điều người khôn ngoan không bao giờ nói để tránh rước họa

 

3 ĐIỀU NGƯỜI KHÔN NGOAN KHÔNG BAO GIỜ NÓI ĐỂ TRÁNH RƯỚC HỌA

Nhiều người tự cho rằng việc sử dụng mánh khóe trong giao tiếp và muốn trục lợi từ sự dối giá của bản thân là thông minh, thế nhưng đây là hành vi vô cùng dại dột.

 

Không nói chuyện phiếm

Cổ nhân dạy: “nhàn cư vi bất thiện”. Câu nói này có nghĩa, con người nếu quá rảnh rỗi thường làm ra những chuyện không hay, một trong số đó chính là tự mua vui bằng những câu chuyện phiếm của người khác.

Người hiểu biết, có trí tuyệt sẽ luôn trân quý thời gian của mình, không làm những chuyện vô bổ, lãng phí thời gian. Thay vì bàn tán chuyện về người khác, họ sẽ tập trung học hỏi, hoàn thiện bản thân để ngày càng tiến bộ.

Lời lộng ngôn, ngông cuồng

Sống không khiêm tốn dễ rước họa. Thành tựu đạt được dù lớn hay nhỏ, nhưng nếu khoe mẽ, tự phụ, ỷ mạnh mà lấn ép người khác, sẽ chẳng thể nhận lại kết cục tốt đẹp.

Một người khôn ngoan thực sự sẽ luôn thủ thế giữ mình, không bao giờ mạnh miệng phô trương, không bộc lộ bản thân, thậm chí là nhường nhịn người khác.

Họ khiêm tốn giấu tài nhưng luôn được nể trọng, ngợi khen, luôn nhận được sự đánh giá cao từ người khác.

 

Lời không thành thật

Nhiều người tự cho rằng việc sử dụng mánh khóe trong giao tiếp và muốn trục lợi từ sự dối giá của bản thân là thông minh, thế nhưng đây là hành vi vô cùng dại dột, tự triệt tiêu phúc báo của chính mình. 

Thế nhưng, núi này cao còn núi khác cao hơn. Những người thông minh họ sẽ tự nhận ra được những động thái và mánh khóe lừa dối của đối phương mà thôi.

Cuối cùng thì việc thiếu trung thực sẽ khiến chính bản thân bạn bị thiệt thòi.

 

Vậy nên, thay vì cứ gồng mình lên để nói chuyện sao cho bóng bẩy hay tỏ ra sắc sảo, hãy chỉ đơn giản và trung thực, dùng chân tâm để đổi lấy thiện tâm.

 

Triết lý dân tộc Việt Nam qua tục ngữ

 

TRIẾT LÝ DÂN TỘC VIỆT NAM QUA TỤC NGỮ

Về ý nghĩa của tục ngữ, trong Việt-Nam văn-học sử yếu, Dương Quảng Hàm đã nhận xét: " Các câu tục ngữ là do những điều kinh nghiệm của cổ nhân đã chung đúc lại, nhờ đấy mà người dân vô học cũng có một trí thức thông thường để làm ăn và cư xử ở đời…

Phạm Thế Ngũ, trongViệt Nam Văn học sử giản ước tân biên đã ghi: "Tục ngữ là kho tàng kinh nghiệm và hiểu biết của người xưa về vũ trụ cũng như về nhân sinh.... Có thể nói đó là một quyển sách khôn mở ngỏ và lưu truyền trong giới bình dân từ xưa đến nay".

Các nhà Nho, các thành phần sang giàu, các thị dân có những sách vở của Nho giáo để căn cứ vào đấy mà ứng xử với nhau. Còn dân gian nông thôn không có chữ, nên trong sự giao thiệp, ứng xử thường ngày, chỉ căn cứ vào các câu tục ngữ, là kho tàng hiểu biết, khôn ngoan, kinh nghiệm mà tiền nhân đã truyền miệng lại cho chúng ta.

Học giả Thái Văn Kiểm có kể lại câu chuyện về công dụng của tục ngữ trong một việc tranh chấp giữa dân gian với nhau, tóm lược như sau: “Trước đây có một lái buôn bán cho người Việt Thượng một cái áo bằng vải bông giá 50 đồng, trả được 30, còn thiếu 20 đồng, thì người Thượng bỏ lên núi không thấy quay lại thanh toán.

Sau một thời gian khá lâu, người lái buôn gặp lại người Thượng xuống đi chợ, liền túm lấy dẫn đến viên cai trị người Pháp để kiện. Người Thượng nói áo mua, vải không tốt, không xứng 50 đồng, nay y chịu trả thêm 10 đồng nữa mà thôi. Còn người lái buôn nhất định đòi cho được 20. Viên cai trị Pháp xét việc cũng không có gì rắc rối, mà y lại nói tiếng Việt và tiếng Thượng thông thạo, thấy không cần gọi viên chức Việt đến giúp. Không ngờ suốt cả buổi mai y giải thích luật lệ, khuyên dụ đủ mọi cách, mà cả hai bên nguyên bị vẫn không ai chịu nghe theọ.

Cùng lắm, y cho gọi viên chức Việt đến. Viên chức Việt chỉ nói qua nói lại có mấy phút mà người lái buôn bằng lòng nhận 10 đồng. Viên cai trị Pháp lấy làm lạ, hỏi, thì viên chức Việt kể lại là đã dùng các câu thành ngữ, tục ngữ để nói với người lái buôn rằng: "Anh cho người Thượng mắc chịu như vậy cũng như "thả trâu vô rú", nay được người Thượng bằng lòng trả thêm 10 đồng, là như "của đổ mà hốt lại" thôi.

Xưa nay anh có thấy ai hốt của rơi lại cho đủ không? Ông bà ta thường nói: "gạo đổ lượm chẳng đầy thúng". Bây giờ họ bằng lòng trả 10 đồng là được rồi, chớ bày chuyện kiện cáo vì tục ngữ ta có câu: "được kiện mười bốn quan năm, thua kiện mười lăm quan chẳn ".

Khôn dại, hơn thiệt thế nào, là một thương gia, anh hẳn thấy rõ." Người lái buôn cho là phải, nên nghe theo".

Vấn đề "khôn dại" rất quan trọng trong việc xử thế, cho nên trong văn thơ của các bậc thức giả xưa nay, vẫn thường thấy được nói đến. Từ thế kỉ thứ XV, Nguyễn Trãi, trong Quốc-âm thi tập, đã nêu lên vấn đề "khôn dại" nầy:

"Chẳng khôn chẳng dại, chỉ ương ương, "Chẳng dại người hòa (tất cả) lại chẳng thương" đại ý nói rằng nếu ta chẳng chịu nhận là dại thì tất cả mọi người chẳng ai thương mình...

 

Thế kỉ thứ XVI, trong Bạch-Vân am quốc ngữ thi tập, Trạng Trình cũng phân biệt hai chữ "khôn dại" như sau: "Khôn thì người dái (sợ, nể), dại thì thương, "Nhắn bảo bao nhiêu người ở thế, "Chẳng khôn đành dở, chớ ương ương" Nghĩa là: Khôn thì thật khôn cho người ta sợ, dại thì rõ ràng dại đi cho người ta thương, nếu không khôn được thì đành chịu dại, chớ không nên ương ngạnh.

Rồi đến đầu thế kỉ thứ XX, Trần Thế Xương cũng than lên: "Thiên hạ đua nhau nói dại khôn, "Biết ai là dại, biết ai khôn? "Khôn nghề cờ bạc là khôn dại, "Dại chốn văn chương, ấy dại khôn..."

Trong các câu tục ngữ của ta, dân gian đã nói nhiều về "khôn" dại", và đặc biệt, cũng có một câu giống như các câu thơ của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa thấy trên đây: "Khôn cho người dái (nể, sợ), dại cho người thương "Dở dở ương ương, tổ cho người ta ghét" Nhưng vì sao dân ta cho rằng cần phải phân biệt dứt khoát "khôn", "dại" như thế?

Nguyên là trải qua bao thế kỉ, dân tộc Việt thường xuyên phải chọn lựa giữa hai con đường: đầu hàng, cộng tác với địch, hay kháng chiến chống lại với ngoại xâm và bạo quyền tàn ác. Con đường nào là khôn? Con đường nào là dại.


Nhưng khôn hay dại, thường bị các thành kiến chủ quan thiên lệch của người đời chi phốị. Lắm khi, điều mà ta cho là khôn, thì người khác lại cho là dại, hay ngược lại, như trong cổ tích "Trâu rừng với trâu nhà ":

"Trâu rừng chê trâu nhà là dại, vì để cho chủ bắt làm việc cực nhọc, rồi cuối cùng cũng bị chủ làm thịt, và cho mình là khôn vì đã chọn cuộc sống tự do, không bị cưỡng bách lao lực.

Còn trâu nhà thì chê lại trâu rừng là dại, vì ở rừng bị đói khát, nhất định có ngày sẽ bị beo cọp ăn thịt, và cho mình là khôn vì thường ngày có cỏ để ăn, có nhà để ở, khỏi bị dãi dầu mưa nắng, khỏi bị thú dữ sát hại.

Bên nào cũng tự cho mình là khôn hơn bên kia, và cảnh cáo lẫn nhau: "Khôn thì sống, mống (dại) thì chết". (Truyện cổ nước Nam)

 

Khôn không phải là làm khôn, (tiếng Việt, có chữ "làm khôn" nghĩa là tỏ ra mình khôn ngoan hơn người và can thiệp, xía vào việc của người khác), như thế chỉ có hại cho mình. "Khôn vừa chứ, khôn lắm lại chết non."

Từ thế kỉ thứ XV, Nguyễn Trãi đã có câu thơ đại ý như thế: "Hễ kẻ làm khôn thì phải khó." Và Trạng Trình cũng khuyên đừng "tranh khôn" mà có hại: "Tranh khôn ắt có bề lo lắng." Mà trái lại, tục ngữ bảo ta phải biết cư xử cho nhún nhường, khiêm tốn: "Ai nhất thì tôi thứ nhì, "Ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba"

"Khôn cũng chết " như Trạng Trình nói, đó là cái "khôn giả"; và "dại cũng chết " như Trạng Trình nói, đó là cái "dại thật". Chỉ ai biết phân biệt được "khôn thật" với "khôn giả", "dại thật" với "dại giả", thì mới có thể sống được mà thôị Cũng như Trạng Trình, tục ngữ đã kết thúc rằng: "Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống"

Xem như thế, "biết" là điều kiện chính yếu để biện biệt cái "khôn" với cái "dại", giúp cho chúng ta có thể thực hiện được "đạo làm người", giúp cho dân và nước Việt Nam chúng ta khỏi bị diệt vong.