Hiển thị các bài đăng có nhãn Triết học. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Triết học. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 22 tháng 2, 2024

Chủ nghĩa Zenon (Zenonism).

 

“NGỌN LỬA RỰC CHÁY TẠO NÊN TIA LỬA VÀ ÁNH SÁNG CHO NHỮNG THỨ ĐƯỢC NÉM VÀO ĐÓ.” - MARCUS AURELIUS

“A blazing fire makes flame and brightness out of everything that is thrown into it.” – Marcus Aurelius

Sự thật là, cho dù chúng ta có dành bao nhiêu thời gian để chuẩn bị cho khủng hoảng, chúng ta cũng không bao giờ có thể hoàn toàn kiên cường trước những bất hạnh. Đó là lý do tại sao chúng ta phải hành động theo Chủ nghĩa Khắc kỷ khi đối mặt với nghịch cảnh.

Để lấy ví dụ cho điều này, không cần tìm đâu xa mà hãy nhìn vào chính người sáng lập Chủ nghĩa Khắc kỷ.

Vào năm 300 trước Công nguyên, Zeno xứ Citium, một thương gia giàu có, bị đắm tàu ​​trong một chuyến hải hành và mất toàn bộ hàng hóa. Không tài sản, không của cải và mắc kẹt ở thành phố Athens xa lạ; Zeno lang thang vào một hiệu sách.

Không có nhiều việc phải làm, Zeno bắt đầu đọc triết học của Socrates, điều này ngay lập tức khiến Zeno quan tâm đến triết học.

“Tôi đã bị đắm tàu, và giờ đây tôi đang có một cuộc hành trình tốt đẹp.” – Zeno

Một thời gian sau Zeno bắt đầu giảng dạy triết lý của riêng mình, chủ nghĩa Zenon (Zenonism).

Nhưng vì Zeno giàu có một thời đã mất tất cả do vụ đắm tàu ​​nên ông không đủ tiền mua một tòa nhà như Lyceum của Học viện Plato của Aristotle.

Thay vào đó, Zeno và các học trò của mình tụ tập dưới bóng râm của Stoa và thảo luận về triết học.

Chủ nghĩa Zenon sau này được đổi thành Chủ nghĩa Khắc kỷ (Stoicism), lấy cảm hứng từ Stoa nơi Zeno dạy triết học.

Thay vì để vụ đắm tàu ​​hủy hoại tinh thần của mình, Zeno đã nhận lấy sự mất mát và biến nó thành vận may (vận may ẩn dụ).

Và giờ đây, thay vì chỉ là một thương gia mà lịch sử sẽ không ghi nhớ, Zeno đã trở thành người sáng lập ra triết lý nổi tiếng. Ông sẽ không có được di sản này nếu vụ đắm tàu không xảy ra. 

ST

Thứ Sáu, 27 tháng 10, 2023

Triết lý dân tộc Việt Nam qua tục ngữ

 

TRIẾT LÝ DÂN TỘC VIỆT NAM QUA TỤC NGỮ

Về ý nghĩa của tục ngữ, trong Việt-Nam văn-học sử yếu, Dương Quảng Hàm đã nhận xét: " Các câu tục ngữ là do những điều kinh nghiệm của cổ nhân đã chung đúc lại, nhờ đấy mà người dân vô học cũng có một trí thức thông thường để làm ăn và cư xử ở đời…

Phạm Thế Ngũ, trongViệt Nam Văn học sử giản ước tân biên đã ghi: "Tục ngữ là kho tàng kinh nghiệm và hiểu biết của người xưa về vũ trụ cũng như về nhân sinh.... Có thể nói đó là một quyển sách khôn mở ngỏ và lưu truyền trong giới bình dân từ xưa đến nay".

Các nhà Nho, các thành phần sang giàu, các thị dân có những sách vở của Nho giáo để căn cứ vào đấy mà ứng xử với nhau. Còn dân gian nông thôn không có chữ, nên trong sự giao thiệp, ứng xử thường ngày, chỉ căn cứ vào các câu tục ngữ, là kho tàng hiểu biết, khôn ngoan, kinh nghiệm mà tiền nhân đã truyền miệng lại cho chúng ta.

Học giả Thái Văn Kiểm có kể lại câu chuyện về công dụng của tục ngữ trong một việc tranh chấp giữa dân gian với nhau, tóm lược như sau: “Trước đây có một lái buôn bán cho người Việt Thượng một cái áo bằng vải bông giá 50 đồng, trả được 30, còn thiếu 20 đồng, thì người Thượng bỏ lên núi không thấy quay lại thanh toán.

Sau một thời gian khá lâu, người lái buôn gặp lại người Thượng xuống đi chợ, liền túm lấy dẫn đến viên cai trị người Pháp để kiện. Người Thượng nói áo mua, vải không tốt, không xứng 50 đồng, nay y chịu trả thêm 10 đồng nữa mà thôi. Còn người lái buôn nhất định đòi cho được 20. Viên cai trị Pháp xét việc cũng không có gì rắc rối, mà y lại nói tiếng Việt và tiếng Thượng thông thạo, thấy không cần gọi viên chức Việt đến giúp. Không ngờ suốt cả buổi mai y giải thích luật lệ, khuyên dụ đủ mọi cách, mà cả hai bên nguyên bị vẫn không ai chịu nghe theọ.

Cùng lắm, y cho gọi viên chức Việt đến. Viên chức Việt chỉ nói qua nói lại có mấy phút mà người lái buôn bằng lòng nhận 10 đồng. Viên cai trị Pháp lấy làm lạ, hỏi, thì viên chức Việt kể lại là đã dùng các câu thành ngữ, tục ngữ để nói với người lái buôn rằng: "Anh cho người Thượng mắc chịu như vậy cũng như "thả trâu vô rú", nay được người Thượng bằng lòng trả thêm 10 đồng, là như "của đổ mà hốt lại" thôi.

Xưa nay anh có thấy ai hốt của rơi lại cho đủ không? Ông bà ta thường nói: "gạo đổ lượm chẳng đầy thúng". Bây giờ họ bằng lòng trả 10 đồng là được rồi, chớ bày chuyện kiện cáo vì tục ngữ ta có câu: "được kiện mười bốn quan năm, thua kiện mười lăm quan chẳn ".

Khôn dại, hơn thiệt thế nào, là một thương gia, anh hẳn thấy rõ." Người lái buôn cho là phải, nên nghe theo".

Vấn đề "khôn dại" rất quan trọng trong việc xử thế, cho nên trong văn thơ của các bậc thức giả xưa nay, vẫn thường thấy được nói đến. Từ thế kỉ thứ XV, Nguyễn Trãi, trong Quốc-âm thi tập, đã nêu lên vấn đề "khôn dại" nầy:

"Chẳng khôn chẳng dại, chỉ ương ương, "Chẳng dại người hòa (tất cả) lại chẳng thương" đại ý nói rằng nếu ta chẳng chịu nhận là dại thì tất cả mọi người chẳng ai thương mình...

 

Thế kỉ thứ XVI, trong Bạch-Vân am quốc ngữ thi tập, Trạng Trình cũng phân biệt hai chữ "khôn dại" như sau: "Khôn thì người dái (sợ, nể), dại thì thương, "Nhắn bảo bao nhiêu người ở thế, "Chẳng khôn đành dở, chớ ương ương" Nghĩa là: Khôn thì thật khôn cho người ta sợ, dại thì rõ ràng dại đi cho người ta thương, nếu không khôn được thì đành chịu dại, chớ không nên ương ngạnh.

Rồi đến đầu thế kỉ thứ XX, Trần Thế Xương cũng than lên: "Thiên hạ đua nhau nói dại khôn, "Biết ai là dại, biết ai khôn? "Khôn nghề cờ bạc là khôn dại, "Dại chốn văn chương, ấy dại khôn..."

Trong các câu tục ngữ của ta, dân gian đã nói nhiều về "khôn" dại", và đặc biệt, cũng có một câu giống như các câu thơ của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa thấy trên đây: "Khôn cho người dái (nể, sợ), dại cho người thương "Dở dở ương ương, tổ cho người ta ghét" Nhưng vì sao dân ta cho rằng cần phải phân biệt dứt khoát "khôn", "dại" như thế?

Nguyên là trải qua bao thế kỉ, dân tộc Việt thường xuyên phải chọn lựa giữa hai con đường: đầu hàng, cộng tác với địch, hay kháng chiến chống lại với ngoại xâm và bạo quyền tàn ác. Con đường nào là khôn? Con đường nào là dại.


Nhưng khôn hay dại, thường bị các thành kiến chủ quan thiên lệch của người đời chi phốị. Lắm khi, điều mà ta cho là khôn, thì người khác lại cho là dại, hay ngược lại, như trong cổ tích "Trâu rừng với trâu nhà ":

"Trâu rừng chê trâu nhà là dại, vì để cho chủ bắt làm việc cực nhọc, rồi cuối cùng cũng bị chủ làm thịt, và cho mình là khôn vì đã chọn cuộc sống tự do, không bị cưỡng bách lao lực.

Còn trâu nhà thì chê lại trâu rừng là dại, vì ở rừng bị đói khát, nhất định có ngày sẽ bị beo cọp ăn thịt, và cho mình là khôn vì thường ngày có cỏ để ăn, có nhà để ở, khỏi bị dãi dầu mưa nắng, khỏi bị thú dữ sát hại.

Bên nào cũng tự cho mình là khôn hơn bên kia, và cảnh cáo lẫn nhau: "Khôn thì sống, mống (dại) thì chết". (Truyện cổ nước Nam)

 

Khôn không phải là làm khôn, (tiếng Việt, có chữ "làm khôn" nghĩa là tỏ ra mình khôn ngoan hơn người và can thiệp, xía vào việc của người khác), như thế chỉ có hại cho mình. "Khôn vừa chứ, khôn lắm lại chết non."

Từ thế kỉ thứ XV, Nguyễn Trãi đã có câu thơ đại ý như thế: "Hễ kẻ làm khôn thì phải khó." Và Trạng Trình cũng khuyên đừng "tranh khôn" mà có hại: "Tranh khôn ắt có bề lo lắng." Mà trái lại, tục ngữ bảo ta phải biết cư xử cho nhún nhường, khiêm tốn: "Ai nhất thì tôi thứ nhì, "Ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba"

"Khôn cũng chết " như Trạng Trình nói, đó là cái "khôn giả"; và "dại cũng chết " như Trạng Trình nói, đó là cái "dại thật". Chỉ ai biết phân biệt được "khôn thật" với "khôn giả", "dại thật" với "dại giả", thì mới có thể sống được mà thôị Cũng như Trạng Trình, tục ngữ đã kết thúc rằng: "Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống"

Xem như thế, "biết" là điều kiện chính yếu để biện biệt cái "khôn" với cái "dại", giúp cho chúng ta có thể thực hiện được "đạo làm người", giúp cho dân và nước Việt Nam chúng ta khỏi bị diệt vong.

 

Thứ Bảy, 26 tháng 8, 2023

Osho nói về 2 Triết gia Hy Lạp

 

OSHO NÓI VỀ 2 TRIẾT GIA HY LẠP

 

Socrates đã bị xử tử trên chính quê hương Hy Lạp của mình. Nếu người Hy Lạp chịu gác lại mọi định kiến mà lắng nghe Socrates, đất nước của họ sẽ trở thành cường quốc trên lĩnh vực tri thức. Nhưng không, họ không hiểu những giá trị khoa học mà Socrates đã tìm hiểu được.

Socrates đã hy sinh bản thân mình trên con đường tìm kiếm khoa học. Ông không yêu cầu mọi người tin tưởng điều gì tuyệt đối, bởi chỉ nên tin tưởng khi có bằng chứng xác thực. Ngay cả khi chấp nhận một điều như một chân lý, nên chấp nhận nó như một giả định.

Khi thời thế thay đổi, suy nghĩ cũng sẽ thay đổi và những lập luận mới sẽ xuất hiện. Socrates biết điều đó, vì vậy ông không tạo ra một môn phái, tôn giáo hay lý thuyết nào – ông chỉ chấp nhận thế giới này như nó vốn có.

 

Osho – và những người ngưỡng mộ – đều yêu mến Socrates bởi tính khiêm nhường của ông.

Khi còn trẻ, ta nghĩ rằng mình biết hết mọi thứ; khi trưởng thành hơn một chút, ta cũng nhận thức rằng có quá nhiều điều mình không biết. Khi già hơn chút nữa, ta trở nên bối rối bởi vì ta từng biết nhiều khi còn trẻ, và giờ ta biết ngày càng ít. Và cuối cùng, trước khi chết, ông ấy nói: “Ta chẳng biết gì”.

 

Heraclitus được những người cùng thời nhận xét là một người kỳ lạ, bởi suy nghĩ và cá tính của ông là độc nhất vô nhị. Khi nói chuyện, ông thích làm cho đối phương khó hiểu bằng những câu chuyện ngược đời, đầy nghịch lý. Trong khi triết gia Aristotle luôn né tránh những nghịch lý bằng những lý thuyết rõ ràng, rành mạch thì Heraclitus lại mở cánh cửa của cuộc đời đầy nghịch lý ra trước mắt mọi người. Điều đó khiến ông trở thành một người quái đản và lập dị dưới con mắt giản đơn của người đời. Quê hương Hy Lạp dường như chưa bao giờ hiểu được tường tận về con người này.

 

Osho nhận xét nếu như Heraclitus chào đời ở phương Đông thay vì phương Tây, có thể ông sẽ dễ dàng được chấp nhận hơn. Ở phương Đông không thiếu những học giả có cá tính nghịch lý như ông: Đức Phật, Lão Tử và những người hiểu biết không phải lúc nào cũng được người đời thấu hiểu. Thế nhưng, những lý thuyết họ đưa ra được hưởng ứng và họ được tôn sùng.

 

Không chỉ dòng sông thay đổi, bạn cũng đã thay đổi. Đây là thông điệp sâu sắc nhất của Heraclitus: mọi thứ đều trôi theo dòng và thay đổi; mọi thứ đều di chuyển, không có gì đứng im. Và khoảnh khắc bạn neo bám, bạn sẽ bỏ lỡ thực tại, Sự neo bám của bạn trở thành vấn đề, bởi vì thực tại thay đổi, còn bạn lại neo bám.