Hiển thị các bài đăng có nhãn Triết học. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Triết học. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 20 tháng 3, 2025

Đối thoại triết học giữa người và chó Léo

 

ĐỐI THOẠI TRIẾT HỌC GIỮA NGƯỜI VÀ CHÓ LÉO

Thử cất đi bộ mặt suy tư nghiêm trọng để cười cùng triết học khi đọc cuốn sách này. Cuốn sách viết về cuộc đối thoại giữa một con chó tên là Léo và ông bạn triết gia của nó. Câu hỏi lớn bao trùm cuốn sách mỏng này là:

Một con người thì khác gì một con vật?

 

Triết gia cho rằng, con người có tính xã hội, trong khi đó, trong mắt con chó thì cái xã hội loài người là “một cuộc chiến của mọi người chống lại mỗi người”. Bởi vì, cũng theo con chó, nếu loài chó có cắn thì cũng chỉ dùng cái răng nanh mà tạo hoá ban cho để giữ khúc xương, trong khi đó con người phát minh ra rất nhiều vũ khí để huỷ diệt đẫm máu, chiếm đoạt của nhau, kẻ nọ sợ kẻ kia đến độ phải… nuôi chó để giữ nhà mình!

 

Nhưng rồi cuộc chuyện trò về tính xã hội sẽ đi đến một kết luận rằng, một con chó thì không biết viết sách triết cho mọi người đọc, mà nó chỉ có thể giữ khúc xương cho chính mình và đối thoại xã hội bằng cách cùng nhau sủa… như một dàn hợp xướng vào ban đêm!

 

Triết gia cho rằng: “Lao động giáo dục con người chứ không huấn luyện họ như huấn luyện một con vật”, trong khi đó, lao động với loài vật lại là một việc bản năng. Con chó cho rằng, nó có linh cảm tốt khi săn mồi, còn theo triết gia, con người phải học lao động và qua lao động, quá trình tiến hoá diễn ra.

 

Nhưng ở điểm này, con chó cũng dạy cho triết gia một bài học, đó là: “Con người hãy sống cho xứng đáng, như cuộc sống của một con chó đi”. Cuộc sống đó là gì? Đó là: một cuộc sống thật sự không phải là lao động, mà cũng chẳng phải là lười nhác, nhưng phải tự tìm cảm giác nhàn rỗi trong khi lao động thì con người mới hạnh phúc.

Và một việc nữa, nếu con người vỗ ngực tự cho rằng mình có ngôn ngữ, thì hãy thức đêm mà nghe những con chó sủa đối đáp với nhau.

 

Triết gia bảo rằng: “Bọn chó của cậu khi sủa thì nói lên được một tình huống đang xảy ra (khác với con người). Nói chuyện là nói những điều vắng mặt không hiện diện trước mắt ta”. Nhưng với con chó, chính vì có thể “sáng tác” được những điều không tồn tại nên “con người là một con vật dối trá”.

 

Triết gia nói: “Con người là loài duy nhất biết nói, suy nghĩ và lý tính” nhưng trong lúc đó, ông rất mệt mỏi. Còn con chó nói, nó có hạnh phúc nhờ tổng hoà những điều này: biết chạy nhảy, sống linh hoạt, ăn uống lành mạnh!

Con chó Léo tiếp tục phủ định con người là loài có hạnh phúc và tự do vì đã tự giải phóng mình ra khỏi tự nhiên để mặc vào cái đặc tính văn hoá.

 

Cụ thể là: “Loài chó chúng em sinh ra đã là chó; nhưng các bác khi sinh ra đâu đã hoàn toàn là con người”.

Rốt cuộc thì con người yên tâm làm con người, con chó hài lòng làm... con chó.

Vì, theo triết gia: “Ta thích làm con người hơn, làm một động vật yếu đuối nhất hạng, cái thứ động vật sẽ phải hết sức khéo léo để tự trang bị cho mình tất cả những gì tự nhiên không ban cho”.

 

Trong khi đó, con Léo thì nói rằng: nó chẳng muốn làm người tẹo nào, vì làm người “để đến trường nhận điểm xấu từ những người buộc thằng này phải sủa bằng tiếng Anh?”. Với nó – một con chó, thì việc phải trao đổi triết học với một triết gia đã bi đát lắm rồi!

 

Thấp thoáng sau những mẩu đối thoại bông đùa, hài hước là những tư tưởng Platon, Aristote, Hobbes, Kant, Hegel, Descartes, Hannah Arendt, Épicure, Claude Lévi-Strauss… Có kèm theo những đoạn văn bản, bảng chỉ dẫn cụ thể để độc giả “tra cứu”. Phần đáng kể nữa đó là minh hoạ của hoạ sĩ Lionel Koechlin tạo cho cuốn sách sự sống động thú vị.

 

Yêu mến triết học là yêu mến sự hiểu biết. Sự hiểu biết đem lại sảng khoái và sáng sủa trong cách nghĩ. Có lẽ từ lý lẽ đó, ý tưởng cuốn sách tư duy “dành cho những độc giả trên 11 tuổi” này không chọn cánh cửa suy tư nghiêm trọng mà chọn tiếng cười, sự hài hước để nói chuyện triết!

 

(Đọc Con người là gì? của GS văn học Cécile Robelin và GS triết Jean Robelin, Phấn Khanh dịch, Phạm Toàn hiệu đính, NXB Tri Thức, 2009)

Thứ Bảy, 8 tháng 2, 2025

Chủ nghĩa hiện sinh là một triết lý về bản chất con người

 

CHỦ NGHĨA HIỆN SINH LÀ MỘT TRIẾT LÝ VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI

Chủ nghĩa hiện sinh ra đời ở Đức cuối chiến tranh thế giới thứ nhất với hai đại biểu lớn là Martin Heidegger (1889-1976) và Karl Jasper (1883 - 1969), sau đó lan nhanh sang Pháp tạo nên các tên tuổi như Jean Paul Sartre (1905-1980), Garbie Marcel (1889 -1978), Albert Camus (1913-1960), Merleau Ponty (1908-1961).

Ban đầu, chủ nghĩa hiện sinh là một trào lưu văn học phản ánh triết lý sống tự nhiên, tự tại, tự do bằng các hình thức tiểu thuyết, truyện, kịch, thi ca, nhật ký, tiểu luận, v.v... Theo dòng thời gian, triết lý sống đó được đa số người chấp nhận và lý luận hóa, trừu tượng hóa trở thành một trường phái triết học, một phong trào xã hội, ảnh hưởng sâu rộng trong lối sống giới trẻ.

Đến thời khai sáng, triết gia người Pháp - Pascal qua việc đề cập đến tư tưởng tôn giáo và triết học, Pascal đã miêu tả sinh động việc nhân loại ngập chìm trong cảnh bao la vô tận của vũ trụ. Theo ông, “tất cả phẩm giá con người là ở tư tưởng”, nhưng còn một cái quan trọng hơn, cao hơn cả tư tưởng là con tim., bởi vì “con tim có lý lẽ riêng của nó mà lý trí không biết được”.

Chủ nghĩa hiện sinh hiện đại trực tiếp dựa trên quan niệm về con người của triết gia Đan Mạch - Kỉerkegaard (1813-1855), ông đã sớm nhìn thấy tính chất tư biện của Hegel khi triết gia này tìm cách thâu tóm mọi thực tại vào trong hệ thống triết học của mình và trong quá trình luận giải thế giới ông đã đánh mất yếu tố quan trọng là tồn tại người.

Trong khi đó đây lại là điều cốt yếu của triết học, vì tồn tại trước hết phải là tồn tại của một cá thể người, sống, khát vọng, lựa chọn và dấn thân. Thuyết hiện sinh của Kierkegaard có thể tóm lược trong quan niệm cho rằng, “mọi con người phải được hiểu như là sở hữu bản chất cốt yếu là người”.

Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh đến đời sống xã hội và văn học

Là một trào lưu chuyển tải tư tưởng bằng tác phẩm văn học, chủ nghĩa hiện sinh lan nhanh và ảnh hưởng sâu rộng đến giới trẻ phương Tây, tạo nên những phong trào rộng rãi trong cuộc sống phương Tây vào những năm 60 - 70 thế kỷ XX như “Hippy”, “Anti-State”, “Anti-Modern”, “Sexual Liberation”.

Các phong trào này đã tạo nên một cuộc sống sôi động trong giới trẻ, góp phần khẳng định tiến bộ xã hội trong vấn đề bảo vệ nhân quyền, đề cao các quyền tự do, nhất là tự do ngôn luận.

Ở Việt Nam, một cách tự phát, chủ nghĩa hiện sinh đã manh nha trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều khi ông miêu tả thân phận của những thiếu nữ được tuyển vào cung Vua phủ chúa chờ ngày ân ái. Thông qua đó, tác giả nói lên thân phận “bèo dạt mây trôi” của kiếp làm người nói chung.

Tiếp theo Cung oán ngâm khúc, Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng là một thi phẩm phản ánh đời sống “hồng nhan bạc phận” của nàng Kiều với những tiếng kêu xé lòng đứt ruột: 

“Trăm năm trong cõi người ta

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng...

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.

Từ phương Tây, chủ nghĩa hiện sinh theo gót chân quân xâm lược Pháp đến Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX, hiện diện trên thi đàn như thơ say của Vũ Hồng Chương, thơ mới, phản ánh tình yêu hiện đại của các thi sĩ tiền chiến, đặc biệt là thơ Xuân Diệu.

Ở miền Nam, dưới thời tạm chiếm, chủ nghĩa hiện sinh đã trở thành mốt sống của thanh niên đô thị. Tư tưởng hiện sinh phản ánh trong hàng loạt các tác phẩm văn học, điển hình là các tác phẩm của Duyên Anh, Nguyễn Thị Hoàng, Thanh Tâm Tuyền, v.v... đã nói lên tinh thần lo âu, tuyệt vọng, nổi loạn, phản kháng của tầng lớp thanh niên “sống giữa hai làn đạn”.

Trên một khía cạnh nào đó có thể nói chủ nghĩa hiện sinh ở miền nam Việt Nam trước giải phóng đã góp tiếng nói phản kháng sự xâm lược của Mỹ như phong trào “dậy mà đi” phản ánh sự dấn thân của tuổi trẻ trong công cuộc giải phóng đất nước.

Sau công cuộc đổi mới do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng, với phương châm “cởi trói cho văn học nghệ thuật”, chủ nghĩa hiện sinh có cơ hội thể hiện nguyên hình trên diễn đàn văn học với các gương mặt tiêu biểu như: Nguyễn Quang Lập (Một nửa đời đen - trắng, Đời cát), Nguyễn Minh Châu (Phiên chợ Giát), Phạm Thị Hoài (Thiên sứ, Mê lộ, Man nương), Dương Thu Hương (Bên kia bờ ảo vọng, Những thiên đường mù), Bảo Ninh (Nỗi buồn chiến tranh), Nguyễn Huy Thiệp (Phẩm tiết, Vàng lửa, Tướng về hưu, Thương nhớ đồng ơi...), Chu Lai (Ăn mày dĩ vãng), Dương Hướng (Bến không chồng), Nguyễn Thị Ngọc Tư (Cánh đồng bất tận), Đỗ Hoàng Diệu (Bóng đè, Vu quy...), v.v...

Các tác phẩm văn học này đã góp thêm tiếng nói đa dạng cho việc đổi mới của văn học nước nhà, phản ánh một góc buồn tủi, cô đơn của cuộc sống, phơi bày thế giới nội tâm giằng xé của con người trong một thời đại đầy lo âu, mâu thuẫn và biến động từng ngày của khoa học công nghệ.

Thực ra chủ nghĩa hiện sinh trong văn học là sự nối tiếp của chủ nghĩa hiện thực phê phán nhưng với tinh thần tự nhiên, “vô tư”, thẳng thắn và cay nhiệt hơn, nếu không nói là đôi khi có ác ý muốn “hạ bệ những thần tượng”, đưa thần tượng (Idol) và những lý tưởng chính trị - xã hội trở về cuộc sống đời thường, đúng như nghĩa câu cách ngôn mà Karl Marx yêu thích “Không có gì thuộc về con người mà xa lạ đối với tôi”.

Lê Công Sự ĐHSP khoa Ngữ văn

Thứ Sáu, 6 tháng 12, 2024

Tại sao số đông lại yêu thích triết học phương Đông hơn triết học phương Tây?

 

TẠI SAO SỐ ĐÔNG LẠI YÊU THÍCH TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG HƠN TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY?

Cô Miranda Kerr xinh đẹp, thành đạt, rất giàu có và đã được vinh danh là người phụ nữ quyến rũ nhất hành tinh. Cô ấy quan tâm đến việc gìn giữ tâm trí của mình bằng cách tập yoga, tụng kinh, thiền định và theo Phật giáo Nhật Bản.

Cô tịnh niệm Nam Myoho Renge Kyo hai lần một ngày - một viện dẫn kinh luật rằng con người và vũ trụ là hai mặt của cùng một đồng tiền.

Kerr đã trải qua nhiều biến cố của sự cô đơn và mất mát. Bạn trai đầu tiên của cô qua đời trong một vụ tai nạn xe hơi. Người yêu tiếp theo hóa ra là một kẻ lừa dối.

Cô kết hôn với Orlando Bloom, nhưng cuộc hôn nhân lại tan vỡ nhanh chóng. Thế là cô tìm nguồn an ủi và sự giúp đỡ từ triết học Đông phương.

 

Kerr tham gia phong trào Phật giáo Soka Gakkai. Miranda hướng cái tâm chân thành đến giáo lý và sự chỉ dạy.

Vậy tại sao Miranda lại tìm đến văn hóa phương Đông? Cô ấy cần một cái gì đó mà phương Tây sẽ không thể đem đến. Và quyết định của cô ấy cho chúng ta biết một điều cực kỳ quan trọng về cách thế giới phương Tây nhìn nhận - hay chính xác hơn là nhìn nhận sai - về văn hóa của nó.

Miranda nhận thấy cuộc sống của cô trống rỗng và vô nghĩa. Tại thành phố Sydney quê hương của cô, tất cả các giáo sư trong khoa nhân văn của trường đại học đều bận rộn với những mục đích riêng.

 

Ở khoa triết học (một nơi đem đến những răn dạy khôn ngoan và đầy an ủi) các nhà nghiên cứu đang cố gắng chứng minh chủ nghĩa tự nhiên bản thể học, hướng Wittgenstein theo quan điểm lịch sử đúng đắn của mình, phân tích Heidegger quá cố và so sánh Plato của Phaedrus với Đạo đức học.

Những nghiên cứu đó không tốn thời gian, nhưng nó không thực sự hữu ích cho bất cứ ai đang gặp vấn đề thực sự.

 

Thật không may, không chỉ ở Đại học Sydney mà các tổ chức học thuật đã biến văn hóa - thứ sẽ giúp chúng ta sống tốt và ra đi thanh thản - thành học thuật trừu tượng. Phật giáo không như vậy. Giáo lý của Phật đề ra một nhiệm vụ để giúp bạn tìm đường vượt qua những thách thức của sự tồn tại.

Không chỉ có Miranda nhận thấy điều này. Sẽ thật kỳ lạ khi đang dùng bữa tối cùng tầng lớp trung lưu và người bên cạnh bạn chia sẻ rằng người đó đã tìm thấy sự an ủi ở Hegel hoặc Aristotle.

Nhưng nếu người đó nói rằng mình đã đến Nepal và bị mê hoặc bởi đạo đức và giáo lý khôn ngoan truyền thống, thì điều này lại không lạ chút nào.

 

Miranda muốn ai đó giải thích những gì cần làm để lèo lái một con đường trong cuộc sống. Và, vì một số định kiến ​​sâu sắc luôn chống lại và mổ sẻ những lý tưởng hữu ích, văn hóa phương Tây đã khiến cô thất vọng.

 

Miranda từ chối phương Tây là do lỗi của phương Tây. Cô cần sự giúp đỡ và không ai đưa ra một điều gì cả.

Đây không phải là một vấn đề đối với một người mẫu nổi tiếng, đó là một vấn đề đối với tất cả chúng ta, ở phương Đông và phương Tây. Chúng ta đang bỏ lỡ một nguồn kiến thức quan trọng.

 

Các nhân vật vĩ đại của văn hóa phương Tây hầu như đều muốn văn hóa hoạt động như một công cụ để giúp con người theo đuổi cuộc sống khôn ngoan hơn:

Socrates, Epicurus, Seneca, Montaigne, Schopenhauer, Nietzsche, Schiller, Tolstoy, Proust, tất cả đều muốn văn hóa không phải là một đối tượng nghiên cứu học thuật mà là một nguồn tài nguyên sống có thể truyền tải sự tư vấn và định hướng (chẳng hạn như việc đối mặt với sự mất mát của người thân).

 

Giống như "lời răn" của phương Đông. Đã đến lúc phải đưa văn hóa phương Tây trở lại tham vọng chính đáng của nó, không phải để chiến thắng ở phương Đông, mà là để đứng ngang hàng trong việc theo đuổi con đường phát triển của nhân loại.

 

Theo Thebookoflife