Thứ Sáu, 3 tháng 3, 2023

10 nguyên tắc dạy con thành tài của người Do Thái


10 NGUYÊN TẮC DẠY CON THÀNH TÀI CỦA NGƯỜI DO THÁI

 

Tin tưởng trẻ, đề cao sự độc lập của trẻ, dạy con phải biết tôn trọng cha mẹ...

Đó là những bí quyết nuôi dạy con của các cha mẹ Do Thái, giúp con họ lớn lên trở thành những người tài giỏi, theo liệt kê của Bright Side.

 

1. Đề cao sự độc lập

Cha mẹ bình thường cho rằng trẻ sẽ thành công nếu chúng tin mình có thể làm bất cứ điều gì. Cha mẹ Do Thái nhận thấy quan trọng hơn là trẻ nghĩ rằng nó có thể tự mình làm bất cứ điều gì. 

 

Ở Israel, bạn dễ dàng gặp những đứa trẻ mới một tuổi tự mình ăn bít tết, bởi trẻ được phép tự làm bất cứ việc gì nếu chúng có đủ khả năng.

 

2. Mọi việc khó lúc đầu rồi dần dần sẽ dễ

Để trẻ có thể độc lập, cha mẹ Do Thái luôn thừa nhận những nỗ lực của chúng. Khi trẻ có một sở thích mới, cha mẹ đều ủng hộ và khuyến khích.

Nếu có điều gì đó không suôn sẻ, những người thân lớn tuổi hơn sẽ nói “Kol haschalot kashot”, nghĩa là “vạn sự khởi đầu nan.”

 

3. Sự tin tưởng là phần thưởng tốt nhất 

Cha mẹ Do Thái tưởng thưởng cho những nỗ lực của con bằng sự tin tưởng tuyệt đối. Khi trẻ được tin tưởng hoàn toàn để làm một việc gì đó, nó hiểu rằng nó đã làm tốt.

 

4. Bề ngoài không phải là tất cả

Một đứa trẻ Do Thái có thể khiến nhiều phụ huynh cảm thấy không thể hiểu nổi: chúng lấm lem bùn đất, quần áo xộc xệch...

Thực tế, việc giữ cho trẻ sạch sẽ thường cần rất nhiều nỗ lực và thời gian của cha mẹ, và cha mẹ Do Thái coi đây là việc làm vô ích đối với sự phát triển của trẻ.

Còn bản thân trẻ thì không bao giờ quan tâm đến vẻ bề ngoài đó.

 

5. Chấp nhận sự bừa bộn

Cha mẹ Do Thái không phiền lòng khi trẻ bày bừa, họ hiểu rằng, bọn trẻ không thể giữ mọi thứ ngăn nắp như người lớn.

Đó là lý do thay vì cằn nhằn con cái, cha mẹ Do Thái cho phép chúng được thoải mái và từng bước giải thích với chúng tại sao cần gọn gàng.

 

6. Cho trẻ vận động đến hết năng lượng 

Những bậc cha mẹ khác có thể cảm thấy mệt mỏi khi thấy cách những đứa trẻ Do Thái hành xử. Chúng dành cả ngày để chạy loanh quanh và không ai bảo chúng rằng: “Đừng leo lên chỗ đó!”, “Đừng chạm vào thứ này!” hay “Bình tĩnh lại nào!”

 

Các bậc cha mẹ Do Thái cho rằng việc để trẻ tự do ở bên ngoài khi chúng còn nhỏ khá quan trọng. Bằng cách này, khi lớn lên chúng sẽ tự tin hơn và kiên trì trong tất cả những việc chúng làm.

 

7. Phải tôn trọng gia đình của mình

Trẻ Do Thái được phép làm nhiều thứ. Tuy nhiên, có một giới hạn mà trẻ không thể vượt qua: đó là sự tôn trọng gia đình. Nếu thả con mèo vào chậu mực, trẻ chỉ bị nhắc nhẹ nhưng nếu xúc phạm phụ huynh, trẻ sẽ bị phạt rất nặng.

 

8. Việc của cha mẹ luôn quan trọng

Trẻ Do Thái được dạy phải tôn trọng cha mẹ từ khi còn tấm bé. Mỗi đứa trẻ đều biết rằng tất cả những gì chúng làm đều không quan trọng bằng việc của cha mẹ. Vì thế, trẻ không bao giờ chờ cha mẹ làm một việc gì đó cho chúng mà chúng sẽ cố tự làm.

 

9. Đề cao sự tự chủ của trẻ

Cha mẹ Do Thái không trừng phạt con bằng cách lấy đi thứ gì đó. Thay vào đó, họ áp dụng một số quy tắc mà trẻ sẽ được lợi nhất định nếu làm một việc gì đó, nhờ thế trẻ sẽ không sợ bị phạt mà sẽ học cách sửa chữa hành vi của mình để bản thân có lợi nhất.

Trẻ tự nguyện để dành thức ăn cho anh chị em vì hiểu rằng, khi cho đi một thứ thì nó có thể nhận về mình một thứ khác.

 

10. Không có gì không đáng chú ý

Cha mẹ Do Thái cho rằng, bất kỳ thành tựu nào của trẻ, kể cả những việc tưởng vớ vẩn cũng cần được khen thưởng. Thậm chí khi nhận được một chiếc vòng chỉ đính vài hạt do con làm, người mẹ Do Thái cũng thấy đó là món nữ trang đẹp và sẵn sàng khoe với mọi người.

 

Thứ Năm, 2 tháng 3, 2023

Né tránh bằng tâm linh (Spiritual bypassing)


NÉ TRÁNH BẰNG TÂM LINH (SPIRITUAL BYPASSING)

 

Né tránh bằng tâm linh mô tả một khuynh hướng sử dụng những lý giải tâm linh để né tránh những vấn đề tâm lý phức tạp.

 

Theo Welwood, né tránh bằng tâm linh có thể được định nghĩa là một “khuynh hướng sử dụng những ý niệm và thực hành tâm linh để lảng tránh hay né phải đối mặt với những vấn đề tinh thần chưa được giải quyết, những vết thương tâm lý và những mốc phát triển chưa đạt được.”

 

Là một nhà trị liệu và giáo viên theo đạo Phật, Welwood đã bắt đầu lưu tâm đến việc những người (bao gồm cả ông) thường vận dụng tâm linh như một lá chắn hoặc một cơ chế phòng vệ. Thay vì tự vượt qua những cảm xúc khó chịu hay đối mặt với những vấn đề chưa được giải quyết thì con người ta đơn giản là chối bỏ chúng bằng những lời lẽ lý giải dựa trên tâm linh.

 

Mặc dù đây cũng có thể là một cách để bảo vệ bản thân khỏi tổn thương hoặc để thúc đẩy sự hòa hợp giữa con người với nhau, nhưng thực sự nó không giải quyết được vấn đề.

Thay vào đó, nó đơn thuần chỉ che đậy vấn đề, để nó ngày càng nhức nhối trong khi vẫn không có giải pháp đúng đắn nào được đưa ra.

 

Mặc dù tâm linh có thể là một nguồn sức mạnh giúp tăng cường sức khỏe thể chất và tinh thần của một người, nhưng né tránh bằng tâm linh, coi đó là một cách để trốn chạy khỏi những cảm xúc hay các vấn đề phức tạp rốt cuộc lại kiềm hãm sự phát triển.

 

Nguyên nhân

Né tránh bằng tâm linh là một cơ chế phòng vệ. Nó bảo vệ chúng ta khỏi những thứ khó xử lý, nhưng sự bảo vệ này có cái giá của nó. Ngó lơ hay né tránh vấn đề có thể khiến căng thẳng leo thang về lâu dài và khiến vấn đề càng lúc càng trở nên khó giải quyết hơn.

Mặc dù né tránh là một cơ chế thúc đẩy chính đằng sau dạng hành vi này nhưng có một số yếu tố khác có thể góp phần định hình nó.

 

Nền văn hóa đề cao sức khỏe hay duy trì những quan điểm về lạc quan kiểu độc hại và liên tục cũng là một nguồn lực thúc đẩy đằng sau hiện tượng này. Con người ta được dạy là họ chẳng thể khỏe mạnh trừ khi họ có thể vượt lên trên điều tiêu cực.

Vấn đề ở đây là những cảm xúc tiêu cực là bình thường và cũng là dấu hiệu cảnh báo chủ thể cần thay đổi. Ngó lơ những dấu hiệu này có thể đưa đến những vấn đề trầm trọng hơn trong nay mai.

 

Một nền văn hóa coi trọng cá nhân, nơi luôn coi trọng ý tưởng cho rằng con người ta phải hướng tới mục tiêu cao cả là đạt được nhu cầu thể hiện bản thân nhằm đạt được hành phúc đích thực cũng góp phần tạo nên khuynh hướng né tránh khó khăn hay những cảm xúc khó chịu.

Thay vì cố giải quyết vấn đề trong thực tế có thể gây đau đớn, chủ nghĩa cá nhân dạy con người ta phải tự chịu trách nhiệm cho số phận của bản thân.

 

Né tránh bằng tâm linh không phải lúc nào cũng xấu. Đôi khi trong những lúc căng thẳng cực độ, nó có thể là một cách tạm thời giúp ta bớt mệt mỏi và lo âu.

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng nó có thể mang tính hủy hoại khi bị sử dụng như một chiến lược đàn áp vấn đề về lâu dài.

 

– Nhớ rằng những suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực đều có mục đích của nó. Mục đích cuộc sống không phải là né những suy nghĩ đó, mà là sử dụng chúng để thúc đẩy những hành động tích cực. Chỉ đeo lên những “tấm kiếng màu hồng” và ngó lơ vấn đề sẽ không giúp giải quyết được gì.

 

– Hãy nhớ rằng những cảm xúc khó chịu thường là một dấu hiệu cảnh báo có điều gì đó không đúng và có điều gì đó cần thay đổi.

Nếu bạn luôn cố làm giảm sự khó chịu đơn giản chỉ bằng cách né tránh nó, thì những tình huống gây căng thẳng cho bạn sẽ chẳng thay đổi.

 

Hãy xem những cảm xúc khó chịu này như một cơ hội thay đổi thay vì là một gánh nặng phải tránh.

Mặc dù né tránh bằng tâm linh gây khó khăn trong việc thừa nhận những cảm xúc có thật, nhưng ta cũng cần nhớ rằng bản thân tâm linh có thể là một nguồn lực tích cực trong cuộc sống.

 

Nghiên cứu cho thấy tâm linh thường có nhiều lợi ích về thể chất và tinh thần. Người ta tìm đến tâm linh để lấy lại niềm hy vọng, đối phó với căng thẳng, để tìm kiếm hỗ trợ và tìm ra ý nghĩa cuộc sống.

 

Nghiên cứu đã chỉ ra, người nào có thực hành tâm linh sẽ ít bị trầm cảm hơn, đối phó với căng thẳng tốt hơn, có sức khỏe tổng quát tốt hơn và đời sống tinh thần lành mạnh hơn.

 

Kết luận

Đừng quá khắt khe với những lỗi lầm của bản thân. Sự phát triển là một quá trình và ta sẽ dễ bị rơi vào những thói quen cũ, đặc biệt là khi đang cố đối phó với những điều khó khăn.

 

Tâm linh có thể là một nguồn lực tích cực trong đời sống và nhiều hình thức thực hành tâm linh có thể là những công cụ cực kỳ tuyệt vời giúp quản lý căng thẳng. Chủ động phòng ngừa tình trạng né tránh bằng tâm linh, bạn có thể khiến tâm linh trở thành một hình thức thực hành giúp bạn sống một cuộc đời trọn vẹn và hài hòa hơn.

 

Tham khảo: Picciotto G, Fox J, Neto F. A phenomenology of spiritual bypass: Causes, consequences, and implications. J Spiritual Ment Health.

 

Tôi và Ông


TÔI VÀ ÔNG

 

Truyền thuyết một mẹ trăm con cho ta thấy Tổ tiên của chúng ta từ ngày xưa đã quan niệm trăm họ như một nhà, và dân tộc ta là một đại gia đình.

Ngôn ngữ của ta cũng bộc lộ ý hướng ấy. Tiếng “tôi” trong ngôn ngữ Việt Nam không phải là một tiếng tôi cộc lốc như trong các ngôn ngữ khác.

 

Nói đúng hơn, trong ngôn ngữ ta không có những đại danh từ chỉ nhân vật như je và vous, như I và you, như ngộ và nị. 

Ta để ý nhận xét mà coi. Nếu đi ngoài đường mà gặp một người thì ta phải thiết lập một thứ liên hệ thân thuộc nào đó giữa ta và người đó trước khi ta có thể mở miệng nói chuyện.

 

Nếu người ấy hơi lớn hơn ta hoặc bằng ta, ta sẽ gọi bằng Anh hoặc Chị và ta tự xưng em. Anh Hai, Chị Ba v.v.., đó là những tiếng ta quen dùng để gọi người trạc tuổi của anh chị ta.

Nếu người ấy lớn tuổi hơn ta nhiều, ta gọi bằng Chú, bằng Bác, bằng Dì, bằng Cô hoặc bằng Ông, bằng Bà và ta tự xưng là Cháu.

 

Dùng tiếng tôi thì có vẻ cộc lốc, lạt lẽo. Với lại tiếng “tôi” xưa kia vốn là tiếng khiêm nhường của người thần dân tự xưng với vua, của người đầy tớ tự xưng với chủ. Tôi có nghĩa là bầy tôi (votre sujet) của vua, hoặc tôi tớ (votre serviteur) của chủ.

 

Tiếng “ông” và tiếng “bà” mà ta thường tưởng là tương đương với đại danh từ vous hay you thật ra chỉ là tiếng tôn xưng người đối diện, cho họ đáng bực ông và bà của ta. Tất cả mọi xưng hô trong ngôn ngữ ta đều phải được đặt trong liên hệ gia tộc.

 

Câu “Cháu xin lỗi bà” ta thiết nghĩ không thể dịch ra Pháp văn là “je vous demande pardon” được. Cái tinh thần của ngữ pháp khiến ta có khuynh hướng muốn dịch: “la petite fille voudrait demander pardon à sa grande mère”.

Nếu ta nghe câu tiếng Pháp này không êm tai, đó là tại vì hai văn hóa khác nhau, hai ngôn ngữ khác nhau.

 

Một ngôn ngữ mà không có những đại danh từ nhân vật ngôi nhất và ngôi hai như thế kể cũng hiếm có trên thế giới.

Trong những chi tiết như thế, giống nòi đã ký thác cho ta biết bao nhiều niềm ước vọng, biết bao điều mong mỏi. Ta hãy trở lại khai thác tiềm lực của chính ta ngay trong văn hóa ta trước đã.

 

Trích trong sách “Tương lai văn hóa Việt Nam” của Sư Ông Làng Mai.