Thứ Bảy, 13 tháng 1, 2024

Câu chuyện về "phép màu nhiệm" cứu sống người anh trai của cô bé

 

CÂU CHUYỆN VỀ "PHÉP MÀU NHIỆM" CỨU SỐNG NGƯỜI ANH TRAI CỦA CÔ BÉ

Tess đã dùng chính sự chân thành của mình cùng với 1 đô 11 đồng để mua được phép màu nhiệm và cứu sống người anh trai bị bệnh nặng của mình.

Tess là một cô bé 11 tuổi, em có một người anh trai bị bệnh nặng đang nằm điều trị trong bệnh viện thành phố. Hằng ngày, Tess được bố mẹ đưa đến chăm nom anh trai, cô bé vẫn luôn lạc quan vui vẻ và cho rằng bệnh của anh trai rồi cũng sẽ được các bác sĩ chữa khỏi.

Cô bé ngây thơ không hề hay biết bệnh của anh trai mình rất nặng và chi phí chi trả cho cuộc phẫu thuật đó vô cùng đắt đỏ. Đã chẳng có người quen nào đồng ý cho gia đình Tess mượn tiền cả.

 

Một ngày nọ, Tess vô tình nghe bố mẹ nói chuyện về bệnh tình của anh trai. Mẹ cô đã khóc gục trên vai bố cô: "Chúng ta đã cạn kiệt tiền rồi, liệu bây giờ phải lấy tiền ở đâu để chữa trị cho thằng bé đây?".

Bố Tess thở dài, vỗ vào vai của vợ mình rồi nói trong nỗi tuyệt vọng: "Có lẽ giờ đây chỉ có phép màu nhiệm mới cứu được thằng bé".

 

Ngay sau khi nghe lời nói đó của bố, Tess đã lập tức chạy lên phòng, đập heo đất và lấy ra toàn bộ số tiền mình có trong đó: 1 đô và 11 đồng. Rồi cô bé cầm trong tay toàn bộ số tiền mình dành dụm được, chạy ra hiệu thuốc tây nổi tiếng nhất khu phố.

Tess đứng trước cửa hiệu thuốc tây, làm mọi cách, gây ra mọi tiếng động nhưng vẫn không thể gây được sự chú ý của người dược sĩ. Mãi đến một lúc sau khi em dùng chân đạp mạnh vào cửa kính thì người dược sĩ mới nhìn đến em và cất giọng khó chịu:

 

"Cô bé cần gì? Không thấy là ta đang nói chuyện với người khách quan trọng hay sao?"

Tess không hề thấy ngại ngần hay rụt rè mà liền trả lời:

"Cháu cũng muốn nói chuyện với với người anh quan trọng của cháu. Vì thế nên cháu mới đến đây để hỏi mua phép màu nhiệm".

 

Sau câu trả lời của Tess, vị dược sĩ ngạc nhiên hỏi lại: "Cháu cần mua cái gì cơ?".

"PHÉP MÀU NHIỆM” ạ, cô bé lặp lại món đồ mình cần mua một lần nữa, "Anh trai cháu bị đau ở trong đầu và đã ngủ suốt mấy tuần nay, cha cháu nói rằng chỉ có phép màu nhiệm mới có thể cứu được anh cháu. Vậy bác sĩ có thể cho cháu xin giá của phép màu nhiệm được không ạ?".

 

Vị dược sĩ im lặng một hồi rồi nhẹ giọng trả lời: "Ở đây không bán món đồ cháu cần, cô bé à".

Cô bé Tess vội lắc đầu lia lịa van nài: "Nhưng cháu có tiền đây này. Cái đó giá cao lắm phải không ạ? Nhưng không sao, cháu sẽ tìm cách mượn tiền và trả thêm cho đủ".

Vị khách quan trọng của ông dược sĩ từ nãy đến giờ đã lặng im và lắng nghe hết toàn bộ câu chuyện. Ông ta chậm chạp đứng dậy, nhìn Tess và hỏi thăm: Thế cháu có bao nhiêu tiền nào?

 

Tess mừng rỡ xòe đôi bàn tay nhỏ nhắn ra rồi nói: "Cháu có 1 đô và 11 đồng ạ. Đây là tất cả số tiền cháu dành dụm được bấy lâu nay, nếu thiếu thì cháu sẽ đi mượn thêm ạ. Bác bán cho cháu nhé?".

Vị khách mỉm cười đầy thi vị rồi dùng bàn tay xoa đầu Tess: "Thật trùng hợp, số tiền cháu đang có là số tiền chính xác để mua được phép màu nhiệm mà cháu cần".

 

Ngay sau đó, vị khách đứng dậy, cầm số tiền Tess đưa ra và nắm chặt tay cô bé đề nghị: "Hãy đưa ta đến gặp anh trai và bố mẹ của cháu, biết đâu ta có thể bán cho cháu phép màu nhiệm mà cháu cần".

Tess òa khóc vì xúc động và đưa vị khách lạ đến bệnh viện. Sau khi nói chuyện với bố mẹ Tess, cô bé mới biết vị khách này là một bác sĩ nổi tiếng của bệnh viện anh trai Tess đang chữa trị, ông cũng vừa từ nước ngoài học tập và nghiên cứu trở về.

 

Ông đã yêu cầu sẽ thực hiện cuộc phẫu thuật cho anh trai Tess và cũng hoàn thành mọi hồ sơ, thủ tục của bên bệnh viện.

Cuộc phẫu thuật đã vô cùng thành công, anh trai Tess đã lấy lại được ý thức và dần dần phục hồi sức khỏe. Bố mẹ Tess vô cùng mừng rỡ và đã gặp riêng vị bác sĩ nọ với hy vọng ông có thể cho họ thời gian để trả toàn bộ chi phí cuộc phẫu thuật.

Nhưng vị bác sĩ đã lắc đầu và trả lời: "Tôi đã nhận được chi phí của cuộc phẫu thuật này rồi. Đó là cái giá 1 đô 11 đồng, kèm với sự chân thành của con gái hai vị".

 

Trong cuộc sống khó khăn này, một lúc nào đó tiền bạc sẽ trở nên vô nghĩa khi con người biết kiên trì, cố gắng và chân thành. Như cô bé Tess ngây thơ đã dùng sự chân thành để đem lại sự sống cho anh trai mình. Con người chỉ cần sống tốt và đối xử chân thành với nhau, mọi chuyện trên đời đều tự nhiên sẽ hóa dễ dàng.

 

Thứ Sáu, 12 tháng 1, 2024

Lòng biết ơn cho chúng ta sức khoẻ và sống thọ hơn

 

LÒNG BIẾT ƠN CHO CHÚNG TA SỨC KHOẺ VÀ SỐNG THỌ HƠN

Nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy, lòng biết ơn liên quan chặt chẽ đến sức khỏe của chúng ta. Những người biết nuôi dưỡng lòng biết ơn có thể giảm căng thẳng, ngủ ngon hơn, ít nguy cơ phát sinh các bệnh nguy hiểm và sống thọ hơn.

Rất nhiều nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng lòng biết ơn có thể được nhân lên theo nhiều cách khác nhau. Bạn có thể giúp bản thân nuôi dưỡng lòng biết ơn bằng cách áp dụng bất kỳ hoặc tất cả các điều sau:

 

1) Thiền.

2) Cảm ơn mọi người thường xuyên.

3) Luôn chú ý đến lời nói.

4) Hãy biết ơn mọi người

5) Thực hành tâm linh và cầu nguyện với lòng biết ơn

6) Ghi nhớ những điều tồi tệ và tìm kiếm mặt tốt trong đó.

7) Suy nghĩ sáng tạo và cởi mở.

8) Suy nghĩ tích cực và biết ơn những điều nhỏ nhặt.

9) Làm những điều tử tế cho người khác và tình nguyện vì những lý do có ý nghĩa.

Cuối cùng hãy suy nghĩ về việc nuôi dưỡng một trái tim biết ơn.

 

Rèn luyện lòng biết ơn không phải là quá sức hay tốn thời gian, bạn có thể bắt đầu từ từ và tăng dần khả năng của mình. Sức mạnh của sự tích cực, sự trân trọng và lòng biết ơn là những điều kỳ diệu thay đổi cuộc sống! Quan trọng nhất là bạn xứng đáng có một cuộc sống bền lâu, khỏe mạnh và hạnh phúc hơn!

 

Hiệu trưởng Harvard: Cuộc chiến đã qua đi, hồi ức và bài học lịch sử

 

HIỆU TRƯỞNG HARVARD: CUỘC CHIẾN ĐÃ QUA ĐI, HỒI ỨC VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ

Sáng 23/3/2017, nhân chuyến thăm VN, GS Drew Gilpin Faust là Hiệu trưởng thứ 28 của ĐH Harvard. Bà là giáo sư sử học danh hiệu Lincoln của Trường Khoa học và Nhân văn thuộc ĐH Harvard.

Bà đã có buổi thuyết trình với giảng viên và sinh viên của trường về chủ đề “Cuộc chiến đã qua đi: Hồi ức và bài học lịch sử”.

Những địa danh không ngừng vang vọng

Trước khi trở thành Hiệu trưởng Đại học Harvard, tôi là một học giả và giảng viên lịch sử trong suốt hơn ba mươi năm. Vì vậy, tôi đặc biệt vui mừng được có mặt tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM, một trung tâm nghiên cứu lịch sử hàng đầu của Việt Nam.

 

Việc có mặt tại đây, ở đất nước các bạn, đối với tôi mang rất nhiều ý nghĩa, bởi vì nhiều giai đoạn lịch sử quan trọng của hai quốc gia đã quyện chặt vào nhau và ảnh hưởng tới tất cả chúng ta.

Cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước theo cách nói của các bạn - và “Chiến tranh Việt Nam” theo cách gọi của chúng tôi - đã mãi mãi định hình thế hệ chúng tôi, những người trưởng thành trong thập niên 1960-1970.

 

Dù rằng suốt những năm tháng đó, tôi chưa từng vượt 8000 dặm để đặt chân đến nơi này, nhưng những địa danh như Khe Sanh, Pleiku, Ấp Bắc, Điện Biên Phủ, Vịnh Bắc Bộ, Đà Nẵng, Huế, Sài Gòn, Hà Nội luôn không ngừng vang vọng trong tâm trí tôi trong suốt mấy thập kỷ qua.

Tôi đã hằng mong ít nhất một vài địa danh trong số này không chỉ dừng ở con chữ. Các bạn có một khẩu hiệu nhắn gửi khách du lịch rằng “Việt Nam là một đất nước chứ không phải một cuộc chiến tranh”.

 

Giống như rất nhiều người Mỹ khác từng đến đây, tôi vẫn hằng mong đến một ngày nào đó, Việt Nam trong tâm trí tôi không phải tên gọi của một cuộc xung đột bất ngờ ập đến với thế hệ chúng tôi, mà là một quốc gia và xã hội với tất cả sự phức hợp, vẻ đẹp, lịch sử, sự sống động và triển vọng của nó.

 

Ám ảnh, cả lúc tỉnh lẫn mơ

Và không hiểu sao, dường như đối với tôi, tìm hiểu đất nước của các bạn trở thành điều cần thiết để hiểu chính đất nước của tôi.

Thanh niên trai tráng trong thế hệ chúng tôi đã phải đối diện với giấy gọi nghĩa vụ quân sự, khiến nhiều người phải đấu tranh nội tâm xem họ có nên tuân thủ pháp luật, phụng sự cuộc chiến mà họ cho rằng vừa không khôn ngoan vừa bất chính.

 

Đối với lớp phụ nữ trẻ như tôi thời bấy giờ, tình thế tiến thoái lưỡng nan đỡ mang tính trực diện cá nhân hơn, nhưng nó thôi thúc chúng tôi đặt câu hỏi nghi ngờ về quốc gia của mình, về nên dân chủ và về tính nhân văn của chúng tôi.

Michael Herr, một nhà báo Mỹ chuyên viết về cuộc chiến này, đã từng viết rằng Việt Nam là những gì tất cả chúng tôi đã có thay vì một tuổi thơ hạnh phúc.

 

Ở Harvard, hằng năm cứ đến tháng 5 là hàng trăm cựu sinh viên sẽ về lại trường để kỷ niệm 50 năm ngày ra trường của họ.

Đây là một nghi lễ quan trọng, và vào mùa xuân này, một sự kiện đặc biệt sẽ diễn ra trong khuôn khổ các buổi lễ.

Các thành viên của khóa 1967 - cả nam và nữ - sẽ dành một phần thời gian để cùng nhau tưởng nhớ lại cách thức cuộc chiến đã định hình những tháng năm đại học của họ, và thảo luận xem “Chiến tranh Việt Nam” đã ảnh hưởng đến họ hơn nửa thế kỷ ra sao.

 

Một thành viên khóa này từng là lính thủy đánh bộ đã viết “rất nhiều người thế hệ tôi… đã phải có những lựa chọn về Việt Nam khiến chúng tôi bị ám ảnh suốt quãng đời còn lại của mình, cả lúc tỉnh cũng như khi mơ”.

Tôi không phải là thành viên của khóa sinh viên Harvard sẽ hội ngộ vào mùa xuân này, nhưng tôi cùng trang lứa với họ, và cũng như họ, tôi đã bị định hình bởi chiến tranh Việt Nam theo những cách mà đến tận bây giờ tôi vẫn chưa hoàn toàn thấu hiểu.

 

Nhưng một ảnh hưởng mà tôi có thể xác định rõ ràng là về công việc của tôi với tư cách một sử gia.

Việc trưởng thành trong thập niên 1960 đã tạo ra trong tôi sự cuốn hút dai dẳng với chiến tranh, với cách mà những đòi hỏi khủng khiếp của nó có thể nhào nặn các cá nhân và xã hội, với sự khúc xạ không tránh khỏi của quan điểm và lý tưởng chiến tranh, với những áp lực tột cùng của nó.

Chiến tranh có thể ví như “lửa thử vàng” thuần chất, đối với mỗi cá nhân cũng như cho toàn xã hội.

 

Di sản cho hiện tại

Ngày nay, hàng năm Hoa kỳ chi hơn 100 triệu đô-la cho nỗ lực tìm kiếm và nhận dạng những người mất tích trong Chiến tranh thế giới thứ II, Chiến tranh Hàn Quốc và Chiến tranh Việt Nam.

Tôi tin rằng các bạn đều rất quen thuộc với hoạt động tích cực của MIA sau năm 1975. Nhưng sự thừa nhận rằng nước Mỹ có trách nhiệm phải giải trình và hồi hương - dù đã chết hay còn sống - mọi binh sĩ đang thực hiện nhiệm vụ chỉ mới bắt đầu gần đây.

 

Chỉ từ chiến tranh Hàn Quốc, Hoa Kỳ mới thiết lập chính sách nhận dạng và hồi hương mọi liệt sỹ. Phải đến Thế chiến thứ nhất binh sĩ mới bắt đầu đeo phù hiệu nhận dạng chính thức - cái mà ngày nay chúng ta gọi là thẻ bài quân nhân.

Hệ thống ghi sổ mồ mả trong quân đội bắt đầu xuất hiện vào cuối cuộc chiến, và khi chiến tranh kết thúc, chính phủ Hoa kỳ đã bắt đầu thiết lập hệ thống nghĩa trang quốc gia, một nghĩa vụ trọng đại của nhà nước để ghi nhận công lao của những người đã ngã xuống bảo vệ đất nước.

 

Hậu quả chiến tranh là tàn phá - con người bị thương và biến dạng; trẻ em trở thành mồ côi; tài sản và nguồn sinh kế bị phá hủy; kinh tế đảo lộn; dân chúng chia rẽ. Nhưng hậu quả không chỉ dừng lại ở cơ thể, mà còn nằm trong tâm hồn, thậm chí trong tâm hồn của những người sinh ra rất lâu sau khi tiếng súng đã tắt.

 

Đó là vì sao các thành viên Harvard niên khóa 1967, các ông bà nay đã ở độ tuổi 70, cảm thấy sự cấp thiết phải đối diện với những kinh nghiệm từ hơn năm thập kỷ trước, những ký ức của một thời khi “Việt Nam” đòi hỏi họ phải định nghĩa chính họ và quốc gia của họ.

Đó là vì sao tôi hết sức vui mừng cuối cùng cũng đã được đặt chân đến đất nước các bạn, bởi tôi cũng cùng thế hệ với họ.

 

“Tại sao lựa chọn chiến tranh? Tại sao anh phải viết về cuộc chiến?”, nhân vật Kiên trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh tự vấn. Ngay cả khi anh ta cố gắng hết sức để tìm một chủ đề khác, anh cũng “không thể thôi viết về chiến tranh”.

Cũng như anh, chúng ta viết, chúng ta trò chuyện và chúng ta ghi nhớ bởi chúng ta đều cố gắng để hiểu chiến tranh đã nhào nặn chúng ta ra sao.

 

Việt Nam và Hoa Kỳ đã đối đầu nhau trong một cuộc chiến kéo dài và tàn phá nặng nề. Giờ đây, riêng cũng như chung, chúng ta đang đối diện với hậu quả của nó.

Trong nỗ lực này, lịch sử là điều không thể thiếu. Lịch sử giúp chúng ta đối diện với những vong hồn và ma quỷ mà bi kịch quá khứ để lại như một di sản cho hiện tại. Nó soi rọi những sự mù quáng và tàn bạo đã làm nên chiến tranh. Nó giúp chúng ta hình dung và đấu tranh cho hòa bình.

 

Chúng ta đều sống với bóng ma, ký ức và di sản

Cuộc chiến ở ngoài nước Mỹ, 3 triệu tấn bom và 11 triệu gallon thuốc diệt cỏ đã không rơi trên đất nước chúng tôi; 58.220 lính Mỹ hy sinh, so với con số ước tính khoảng hơn 3 triệu quân và dân Việt Nam thiệt mạng trong “Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai”.

Nhưng cả hai xã hội của chúng ta đều sống với những bóng ma, với ký ức và với những di sản. Với hậu quả chiến tranh.

 

Tuổi Trẻ trích đăng một phần bài phát biểu của giáo sư Faust.