GIỮ THỂ DIỆN THỜI XƯA VÀ “GIỮ THỂ DIỆN” THỜI NAY
Người xưa có câu: “Nhân hoạt nhất trương kiểm, thụ hoạt nhất trương bì”, ý nói con người sống không thể không có và không thể không giữ thể diện, giống như cây cối không thể không có lớp vỏ vậy. Tuy nhiên quan niệm về thể diện của người xưa rất khác so với thời nay.
Yến Tử là tướng quốc tài đức và cơ trí của nước Tề. Sử sách kể rằng, một lần Yến Tử đang dùng bữa thì sứ giả của vua Tề Cảnh Công đến. Yến Tử đứng lên nghênh đón và mời vị sứ giả cùng dùng bữa. Yến Tử chia ra một nửa phần ăn của mình cho sứ giả dùng, kết quả là cả hai cùng ăn không đủ no.
Sau khi vị sứ giả trở về liền mang câu chuyện kể lại cho Tề Cảnh Công. Tề Cảnh Công kinh ngạc nói: “Ôi chao! Không ngờ nhà của Tướng quốc lại nghèo như thế. Vậy mà xưa nay ta không hề biết, đây là lỗi của ta.”
Thế rồi, nhà vua dùng một ngàn lượng vàng thu được từ tiền thuế chợ phái người đưa cho Yến Tử để Yến Tử tiếp khách. Yến Tử nói không cần dùng đến. Tề Cảnh Công ba lần phái người đi đưa tiền vàng cho Yến Tử nhưng cả ba lần ông đều kiên quyết từ chối.
Yến Tử thưa với Tề Cảnh Công: “Thần không nghèo khổ, thần dựa vào bổng lộc của quốc quân mà sống đã là ân huệ cho gia tộc, đủ để giao du quan hệ, sao có thể nhận tiền của bách tính nghèo khổ. Người trung quân không làm như thế.
Nhận châu báu của quân chủ rồi lại không bố thí cho bách tính là ăn trộm ân điển của quân chủ. Người nhân nghĩa không làm như thế.
Trong nhà thần hiện cũng có vải vóc và lương thực đủ dùng. Tại sao thần phải nhận ban thưởng nhiều như thế?”
Người xưa đều tin tưởng và tuân thủ nguyên tắc làm người “vô công không nhận lộc”, đây cũng là cách giữ thể diện của người xưa. Bởi vậy “thể diện” của Yến Tử không nằm ở không có cơm cho sứ giả ăn, mà nằm ở không làm điều bất nghĩa đối với quân vương và bách tính.
Thời cổ đại, có rất nhiều người có thể dễ dàng trở thành những người giàu có, địa vị cao sang nhưng họ chấp nhận sống nghèo khó, thanh sạch chỉ bởi vì không muốn từ bỏ nguyên tắc làm người này.
Theo cách hiểu truyền thống, thể diện của một người có rất nhiều loại. Nếu có người làm chuyện thiếu đạo đức, hoặc làm ra những chuyện mất danh dự, thì người ta sẽ nói người này “không có thể diện”. Ví như, một người cãi nhau lớn tiếng ở nơi công cộng, vô lễ, thì bị xem là một hành động “mất thể diện”.
Thể diện của một người còn liên quan đến tôn nghiêm của người ấy. Ví như, nếu một người ở trước mặt nhiều người mà phê bình một ai đó, thì sẽ khiến người kia “mất thể diện”. Để giữ gìn thể diện cho người khác, nên chọn lúc chỉ có hai người, một mình nói riêng với họ, hoặc cần chú ý về cách nói chuyện.
Thể diện còn có nghĩa là “biết xấu hổ”. Chẳng hạn một người không tự trọng, xen vào và hủy hoại hôn nhân của người khác thì sẽ bị nói là “không có thể diện”, không biết xấu hổ.
Về cơ bản, cổ nhân nói “giữ thể diện” với hàm ý cố gắng tu dưỡng để bản thân không làm ra những chuyện xấu hổ, những chuyện vi phạm luân thường đạo đức.
Ngày nay rất nhiều cái gọi là “giữ thể diện” lại liên quan đến hư vinh. Nhiều người quá coi trọng hư vinh, cảm thấy lái xe hạng sang, dùng điện thoại đắt tiền, mặc quần áo hàng hiệu, thậm chí quen người phụ nữ đẹp, thì cho là rất có “thể diện”. Con cái thi vào đại học nổi tiếng, cha mẹ cũng cảm thấy rất có “thể diện”.
Mời khách dùng bữa, phải chọn thêm vài món ăn, cuối cùng lãng phí bỏ đi, cũng là vì muốn giữ “thể diện”.
Có người vốn không có tiền, lại vay mượn rất nhiều tiền để phô trương bản thân, cũng là vì muốn giữ “thể diện” với mọi người.
Người đứng tuổi, hoặc người có địa vị tương đối cao, thì càng không chịu nhận sai sót, vì không chấp nhận hạ mình mất mặt.
Có quốc gia, có khu vực cũng thường vì thể diện, mà bỏ rất nhiều tiền không nên bỏ ra để xây dựng những công trình không có công dụng thực tế. Đây được gọi là “công trình thể diện”…
Kỳ thực đây đều là hư vinh, không phải là “thể diện” chân chính.
Ngày nay ở một số quốc gia, việc “giữ thể diện” chân chính vẫn còn được xem trọng. Chẳng hạn ở Nhật Bản, trong các xí nghiệp hay trong các tổ chức, nếu người cấp dưới phạm phải sai lầm lớn thì tuyệt đại đa số người cấp trên sẽ tự nhận lỗi. Nếu lỗi nặng thì tự họ sẽ xin từ chức.
Nếu trong gia đình, con cái phạm phải tội, thì người lớn sẽ chủ động nhẫn lỗi và chịu trách nhiệm.
Đặc biệt, nếu người cha người mẹ của cá nhân đó là công chức nhà nước như cảnh sát, giáo viên hay danh nhân trong xã hội… thì đều có thể tự từ chức. Đây được xem là ý thức trách nhiệm về pháp luật và “giữ thể diện” của người Nhật Bản.
Trong khi đó, cùng nằm tại châu Á, nhưng tại một số quốc gia khác thì “thể diện” lại hoàn toàn mang nghĩa phản diện và hư vinh.
Chẳng hạn, vì coi trọng “thanh danh”, “tiếng tăm” của bản thân và tổ chức, nên khi có cấp dưới phạm sai lầm thì cấp trên tìm cách giấu đi, hoặc thay vì nhìn nhận trách nhiệm ở bản thân, thì họ đẩy cá nhân sai phạm ra, coi đó là “con sâu”.
Một số người còn dùng những câu nói ngụy biện trắng trợn để đẩy phủi sạch trách nhiệm. Thậm chí, không quản chuyện gì đã xảy ra, khi “luận công ban thưởng” thì những vị lãnh đạo ấy vẫn có mặt, hơn nữa còn được tuyên dương, khen thưởng. Đây chính là tâm lý “giữ thể diện” của nhiều người hiện đại.