Thứ Ba, 25 tháng 1, 2022

Top 10 trường đại học có nhiều người đoạt giải Nobel nhất thế giới

 

TOP 10 TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÓ NHIỀU NGƯỜI ĐOẠT GIẢI NOBEL NHẤT THẾ GIỚI

Đại học Harvard, ngôi trường đứng đầu trong số các tổ chức đào tạo đại học trên thế giới, cho đến nay cho ra lò 160 người đoạt giải Nobel, 18 người đoạt Huy chương Fields (giải thưởng cao nhất trong lĩnh vực toán học), và 14 giải Turing (khoa học máy tính), 30 người đoạt giải Pulitzer (báo chí) và vô số giới tinh hoa xã hội khác.

Theo sau là các trường đại học khác như bảng xếp hạng Top 10 trường đại học có nhiều người đoạt giải Nobel nhất thế giới

1. Đại học Harvard (Mỹ)

Tính đến nay, ngôi trường này đã có 161 người đoạt giải Nobel, bao gồm 32 Vật lý, 38 Hóa học, 43 Sinh học và Y học, 33 Kinh tế, 7 Văn học và 8 giải Nobel Hòa bình.

 

2. Đại học Cambridge (Anh)

Tính đến nay, ngôi trường này đã có 121 người đoạt giải Nobel, bao gồm 37 Vật lý, 30 Hóa học, 31 Sinh học và Y học, 15 Kinh tế học, 5 Văn học và 3 giải Nobel Hòa bình.

 

3. Đại học California, Berkeley (Mỹ)

Tính đến nay, Đại học California, Berkeley đã có 111 người đoạt giải Nobel, gồm có 34 Vật lý, 31 Hóa học, 17 Sinh lý và Y học, 25 Kinh tế học, 3 Văn học và 1 Hòa bình. 

 

4. Đại học Chicago (Mỹ)

Tính đến nay, đã có 100 người đoạt giải Nobel, bao gồm 32 Vật lý, 19 Hóa học, 11 Sinh học và Y học, 33 Kinh tế học, 3 Văn học và 2 Hòa bình.

 

5. Viện Công nghệ Massachusetts (Mỹ)

Tính đến nay, đã có 97 người đoạt giải Nobel, gồm 34 Vật lý, 16 Hóa học, 12 Sinh lý và Y học, 34 Kinh tế và 1 Hòa bình.

 

6. Đại học Columbia (Mỹ)

Tính đến nay,đã có 96 người đoạt giải Nobel, bao gồm 32 Vật lý, 15 Hóa học, 22 Sinh học và Y học, 15 Kinh tế, 6 Văn học và 6 Hòa bình.

 

7. Đại học Stanford (Mỹ)

Tính đến nay, đã có 87 người đoạt giải Nobel, gồm có 26 Vật lý, 13 Hóa học, 16 Sinh lý  và Y học, 28 Kinh tế, 3 Văn học và 1 Hòa bình.

 

8. Viện Công nghệ California (Mỹ)

Tính đến nay, đã có 77 người đoạt giải Nobel, bao gồm 31 Vật lý, 17 Hóa học, 22 Sinh lý và Y học, 6 Kinh tế học, và 1 Hòa bình.

 

9. Đại học Oxford (Anh)

Tính đến nay, đã có 73 người đoạt giải Nobel, gồm có 15 Vật lý, 19 Hóa học, 19 Sinh lý  và Y học, 9 Kinh tế, 5 Văn học và 6 Hòa bình.

 

10. Đại học Princeton (Mỹ)

Tính đến nay, đã có 71 người đạt giải Nobel, gồm có Vật lý 30, Hóa học 10, Sinh học và Y học 4, Kinh tế học 21, Văn học 5, và 1 giải Nobel Hòa bình.

Tại sao Đại học Harvard lại có thể ươm mầm cho nhiều tài năng xuất chúng tới như vậy? Lý do cơ bản nhất là Harvard rất coi trọng việc trau dồi “năng lực nền tảng” của sinh viên, và không chỉ dừng lại ở mức cho sinh viên "biết", mà yêu cầu sinh viên phải "làm được".

Đại học chỉ chịu trách nhiệm với quá khứ và tương lai của dân tộc, chứ không phải chỉ nhắm ở cái mức kết quả thực tiễn trong vòng mươi lăm năm trước mắt. Cái học ở trong đại học là “cái học đúc khuôn cho cả đời người, cái học chuyển đạt gia tài của ngàn năm trước, cái học tạo ra vóc dáng cho tương lai”… (Diễn văn nhậm chức hiệu trưởng trường đại học Harvard, Drew G. Faust, ngày 12-10-2007)

 

Con cháu quan lại thời thịnh trị thăng tiến bằng thực tài

 

CON CHÁU QUAN LẠI THỜI THỊNH TRỊ THĂNG TIẾN BẰNG THỰC TÀI

Thời xưa các nhà khoa bảng đại đa số khi ra làm quan đều thực tài và thanh liêm, vì họ được rèn luyện đạo đức từ chốn “cửa Khổng, sân Trình” và do được giáo dục nền tảng như vậy nên họ rất sợ luật nhân quả, vì vậy họ không nhũng lạm hoặc làm những việc thất đức để di hại cho con cháu. Họ thường làm những việc tốt để đức về sau cho con cháu phát triển bền vững. Ví dụ một số trong hàng trăm trường hợp quan chức thanh liêm thời bấy giờ, như Nguyễn Công Trứ làm quan đến Tổng đốc Hải An nhưng khi về hưu vẫn sống thanh bạch với một ít tiền hưu trí và dăm sào đất ruộng do triều đình ban cấp; Nguyễn Khuyến khi về nghỉ hưu mà gia sản vẫn chỉ là “ba gian nhà cỏ thấp le te”, Hoàng Diệu làm quan đến Tổng đốc Hà Nội nhưng tiền lương dành dụm mãi cả năm trời vẫn chưa đủ để lợp lại mái ngói ngôi nhà ở quê đã dột nát….

Hầu hết các gia đình quan chức này đều phúc bền, con cháu đều thành đạt ở những mức độ khác nhau và duy trì được sự phát triển bền vững về sau. Đơn cử hai trường hợp trong hàng trăm trường hợp tiêu biểu của sự phát triển bền vững ở các nho gia đạo đức là gia đình Tổng đốc Hoàng Diệu ở làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam và Thượng thư Cao Xuân Dục ở làng Thịnh Mỹ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

Gia đình cụ Hoàng Diệu gồm 7 anh em thì có 6 người đỗ đạt (1 Phó bảng, 3 cử nhân và 2 tú tài). Anh em cụ đều làm quan thanh liêm, con cháu về sau cũng thành đạt; trong đó người em trai của cụ Hoàng Diệu là cử nhân Hoàng Văn Bảng có những người cháu nội sau này là những nhà khoa học nổi tiếng như Hoàng Phê (ngôn ngữ học), Hoàng Quý (vật lý), Hoàng Kiệt (mỹ thuật), Hoàng Tụy và Hoàng Chúng (toán học)…trong đó Hoàng Tuỵ là nhà toán học đẳng cấp quốc tế.

Cụ Cao Xuân Dục làm quan đến Thượng thư, rất nhân hậu, giúp đỡ nhiều người khó khăn; cụ có 8 người con thì người con trưởng đỗ Phó bảng, một số người con thứ đỗ cử nhân, tú tài và ra làm quan. Người con trưởng là Cao Xuân Tiếu làm quan đến Thượng thư bộ Lễ, hàm nhất phẩm như cha.

Trong hàng cháu của cụ Thượng Cao nổi tiếng nhất là Giáo sư Cao Xuân Huy, nhà Đông phương học và trong hàng chắt nổi tiếng nhất là Giáo sư Cao Xuân Hạo, nhà ngôn ngữ học; ngoài ra còn hàng mấy chục cháu, chắt, chít đỗ kỹ sư, bác sĩ, tiến sĩ… trong và ngoài nước.

Thời kỳ chế độ phong kiến thịnh trị, giáo dục thi cử nghiêm minh, đào tạo ra được những quan chức có tài năng và nhân cách, đóng góp nhiều công lao cho đất nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá…mà tên tuổi còn lưu danh cho đến ngày nay. Con quan mà muốn làm quan, giữ những trọng trách của đất nước thì phải thông minh, học giỏi, thi cử đỗ đạt và yếu tố quan trọng nhất là phải có tài năng thực sự.

Con cháu nhà quan ngày đó đi lên bằng đôi chân thật sự của mình chứ hoàn toàn không có sự “lót đường”, nâng đỡ tiêu cực từ thế lực cha ông. Mà có muốn nâng đỡ cũng không được vì cơ chế kiểm soát rất ngặt nghèo: luật pháp nghiêm khắc, cơ quan giám sát như Ngự sử đài thẳng thừng đàn hặc tội lỗi các quan từ trung ương đến địa phương, các quan chức đối trọng nhau trong triều sẵn sàng tố cáo đối thủ, và trên hết là nhà vua cần người tài giỏi để giúp vua trị nước nên trừng trị rất nặng những vụ việc bổ nhiệm bất chính…Vì vậy, nhà quan chỉ có cách duy nhất nâng đỡ con cháu thành đạt là cố gắng lo đầy đủ cơm áo, sách vở, thầy giáo…để đám trẻ có điều kiện học hành đến nơi đến chốn.

Ở những giai đoạn suy vi trong lịch sử, con cháu quan chức thăng tiến bằng sự “lót đường”, dựa dẫm vào thế lực cha ông thì chỉ là những bọn quan lại dốt nát, ăn tàn phá hại đất nước mà thôi.

Thứ Hai, 24 tháng 1, 2022

Mối tình xuyên biên giới của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi

Đền thờ Lưỡng quốc Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi. Di tích lịch sử quốc gia tại thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.

MỐI TÌNH XUYÊN BIÊN GIỚI CỦA TRẠNG NGUYÊN MẠC ĐĨNH CHI

Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi vốn nổi tiếng là người học vấn uyên thâm, có tài ứng đối mẫn tiệp nhưng người thấp bé, hình dung xấu xí. Còn một câu chuyện nữa rất thú vị về cuộc đời của ông mà ít người biết đến là ông có một người vợ yêu dấu ở tận xứ sở Cao Ly và suốt 600 năm nay, hậu duệ của ông vẫn không ngừng khắc khoải tìm về cội nguồn.


Chuyện trạng Việt Nam lấy vợ Cao Ly

Mạc Đĩnh Chi (1286-1350) tự là Tiết Phu, quê ở Hải Dương. Ông đỗ Trạng nguyên khoa Giáp Thìn (1304) thời Trần Anh Tông khi chưa đầy 20 tuổi. Thời xưa, người được chấm đỗ thi Đình có khi còn phải vào yết kiến để vua xét dung mạo rồi mới quyết định cho đỗ hẳn hay không. Mạc Đĩnh Chi vào ra mắt, nhưng vì Vua Trần Anh Tông thấy tướng mạo ông xấu xí nên có ý không muốn cho đỗ trạng.

Ông làm bài phú "Ngọc tỉnh liên" (Hoa sen trong giếng ngọc), ca ngợi sự cao quý của bông sen, tự ví mình với hoa quân tử. Vua đọc xong rất đẹp ý, bèn thuận cho ông đỗ Trạng nguyên. Ông làm quan trải qua ba đời vua: Anh Tông (1293-1313), Minh Tông (1314-1328), Hiến Tông (1329-1340), làm đến chức quan Thượng thư.

.

Trong hành trình quan lộ của mình, Mạc Đĩnh Chi đã hai lần được cử đi sứ sang Trung Quốc, ông thường tỏ ra có tài hùng biện, dùng văn chương áp đảo triều thần nhà Nguyên, những câu ứng đối tài tình của ông được chép nhiều trong sách sử Trung Hoa. Đặc biệt, ông từng được vua Nguyên khen tặng là "Lưỡng quốc Trạng nguyên".

 

Một trong những giai thoại được dân gian biết đến nhiều nhất là câu chuyện Mạc Đĩnh Chi cùng với sứ thần Cao Ly thi tài làm thơ đề quạt. Sau này, 2 người đã trở thành đôi bạn tri kỷ. Khi Trạng Cao Ly về nước, ông mời Trạng Mạc sang thăm Cao Ly bốn tháng. Lần ấy, Trạng Cao Ly làm mối cho Trạng Mạc một người cháu gái để làm thiếp.

Sau bốn tháng, người thiếp ấy theo Trạng Mạc về Trung Quốc, 5 năm sau thì bà về nước cùng với hai người con, một trai một gái.

.

Mười năm sau, Trạng Mạc lại sang Cao Ly một lần nữa. Lần này, ông ở lại Cao Ly sáu tháng, đi du lãm khắp Cao Ly và có tập thơ truyền thế. Người Cao Ly rất hâm mộ ông, bởi ai cũng biết ông là bậc thông minh xuất chúng. Hết sáu tháng, ông trở về Trung Quốc rồi về Việt Nam, khi ấy người thiếp có mang đã ba tháng, sau sinh một bé trai.


Người vợ Cao Ly của ông rất chịu thương chịu khó nuôi nấng dạy bảo các con, dựng vợ gả chồng và thường ở với người con trai út. Sau đó, bà từ biệt con cháu, đi vào chùa ở, hưởng thọ 93 tuổi. Hai người con trai của Mạc Đĩnh Chi sau này cũng trở thành bậc kỳ tài của xứ sở Cao Ly. Người con trai cả của Trạng ra làm quan võ, sinh được 12 người con: 8 trai, 4 gái... Nhánh trưởng này phần đông là người giàu có. Nhánh thứ hai, sau này sinh ra nhiều nhân tài, phần nhiều là người trung nghĩa liêm khiết.

 

600 năm khắc khoải tìm về cội nguồn

Theo nguồn tài liệu trên trang mạng Mactoc.com (trang của dòng họ Mạc) thì hành trình tìm về nguồn cội của hậu duệ Mạc Đĩnh Chi ở Cao Ly bắt đầu từ khá sớm. Trang mạng này viết, năm 1926, ông Sơn Sa Lê Khắc Hoà cho biết rằng, chính ông đã gặp hậu duệ của Mạc Đĩnh Chi từ Cao Ly về Việt Nam trên một chuyến xe về phủ Khoái Châu (Hưng Yên), nhân dịp ông về thăm cha mẹ ở quê. Khi xe chạy đến gần Đình Dù thì ôtô hỏng máy, ông cùng với người Cao Ly vào nghỉ trong một lều tranh bên đường, đem giấy và bút chì ra bút đàm cùng nhau.

.

Người đó kể rằng, ông là người Cao Ly nhưng vốn là dòng dõi của Mạc Đĩnh Chi, là cử nhân, thi đỗ từ năm 16 tuổi, làm quan tới chức quận trưởng. Bởi không chịu nổi cảnh áp bức của người Nhật nên ông từ quan về cố quốc, đi buôn sâm cho qua ngày tháng.

Ông cũng khoe rằng, ông thuộc thế hệ nhánh trưởng, thân ở Cao Ly mà hồn ở Việt Nam. Cao Ly là nơi chôn nhau cắt rốn, nhưng đất Việt mới là quê cha đất tổ. Hồn thiêng sông núi đất Việt luôn luôn gọi ông trở về.

Ông thủ từ Mạc Đức Bẩy cho biết trong dòng họ có ông Mạc Đạm, gốc ở Cao Bằng, trước 1975 sống ở Sài Gòn (nay đang ở Hoa Kỳ) có kể lại vào năm 1966, tại Sài Gòn có một người Hàn Quốc xưng là hậu duệ của Mạc Đĩnh Chi sang tìm lại cội nguồn. Sự việc cũng đã được đăng tải trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng của Sài Gòn lúc bấy giờ, nhưng do điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, ông chưa thể hoàn thành được tâm nguyện.

.

Có một sự trùng hợp nữa là trong năm 2012, đền thờ Mạc Đĩnh Chi ở thôn Long Động đã đón tiếp 2 đoàn tham quan có người Hàn Quốc. Đầu tiên là đoàn gồm 170 người của tổng hội họ Mạc toàn thế giới sống ở nhiều quốc gia khác nhau như Trung Quốc, Anh, Hoa Kỳ, Hàn Quốc… do ông Mạc Tin (đang sống ở Anh) dẫn đầu. Đoàn thứ hai có khoảng 7 người Hàn Quốc đến sau đó một tháng. Tuy nhiên, do bất đồng ngôn ngữ nên ông không giao tiếp được để hỏi sâu.

.

Cách đây 400 năm, do những biến động của lịch sử, họ Mạc đã phải phiêu tán đi nhiều nơi. Chính trong giai đoạn này, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có một câu sấm để đời:

“Tứ bách niên tiền chung phục thủy/Thập tam thế hậu, dị nhi đồng” (Bốn trăm năm trước, cuối cùng trở lại như ban đầu/Mười ba đời sau, khác biệt mà vẫn cùng chung).

Quả thực sau 400 năm sau, con cháu họ Mạc đã dần tìm về cội nguồn. Họ Mạc đã tổ chức được Đại hội lần thứ nhất họ Mạc trên toàn quốc quy tập được nhiều hậu duệ ở nhiều nơi trong cả nước. Thôn Long Động chính là nơi phát tích đầu tiên của dòng họ Mạc Việt Nam, đây cũng là nơi chôn nhau cắt rốn của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi.