Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2020

Lương tâm là tiếng nói của linh hồn, dục vọng là tiếng nói của thể xác

Jean Jacques Rousseau (1712-1778) - một nhà triết học thuộc trào lưu Khai sáng đã chỉ ra: “Lương tâm là tiếng nói của linh hồn, dục vọng là tiếng nói của thể xác“.
 
Lương tâm của con người có được, từ sự lắng đọng của truyền thống và văn hóa, từ gia đình và giáo dục, hay tín ngưỡng tôn giáo… Hàng nghìn năm qua, dưới nhiều hình thức và giải pháp khác nhau, loài người tiến bộ luôn đặc biệt chú ý nuôi dưỡng và vun đắp cho cái “phần hồn” tinh túy này!


Cần nhấn mạnh lại rằng, lịch sử nhân loại, trong mọi thời đại, khi nói đến giáo dục, trước tiên người ta nghĩ ngay đến giáo dục lương tri. Chẳng thế mà ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, nhà triết học và bác học Aristoteles, đã răn dạy: “Giáo dục tâm trí mà không giáo dục con tim thì không phải là giáo dục“. Bởi giáo dục mà thiếu giáo dục lương tâm, sẽ chỉ tạo ra những kẻ mất phương hướng, như danh họa Vincent Willem van Gogh (1853- 1890), đã khẳng định: “Lương tâm là la bàn của con người“.

Nhưng quá trình giáo dưỡng lương tâm luôn có nguy cơ bị phá hủy, bởi những tác nhân cực đoan.

Tác nhân đầu tiên phải kể đến chính là những đường lối tuyên truyền gây méo mó, lệch lạc nhận thức của số đông công chúng. Nước Đức văn minh từng bị đầu độc bởi chủ nghĩa bài Do Thái là một ví dụ điển hình. Thử hỏi khi những yếu tố cấu thành lương tri đều bị phá hủy, hay bị xuyên tạc, lệch lạc, thậm chí bị nhồi nhét cả những tư tưởng bạo lực, giành giật, thì lương tâm con người sẽ ra sao? Chắc chắn, đó chỉ là một xã hội mà số đông dân chúng coi lợi ích vật chất thực dụng là tối thượng mà bất chấp cả nhân cách và nhân tính, một nơi tiềm ẩn những nguy cơ chống lại loài người.

Tác nhân thứ hai đi ngược với việc giáo dưỡng lương tâm là khuynh hướng chạy theo tính hiếu danh. Theo Sigmund Schlomo Freud (1856-1939) - nhà tâm lý học vĩ đại người Đức, thì “tình dục” và “thị dục huyễn ngã” (lòng mong muốn được người khác cho mình là vẻ vang, quan trọng) là hai thị dục căn bản nhất. Còn John Dewey (1859 -1952) - nhà triết học, tâm lý học, và cũng là một nhà cải cách giáo dục người Mỹ cho rằng: “Thị hiếu mạnh nhất của con người là thị dục huyễn ngã”. Chính dục vọng này, cũng đã thúc đẩy tính hiếu danh của con người. Bởi vậy nếu một nền giáo dục, mang nặng bệnh thành tích, coi trọng bằng cấp, giải thưởng, thì sẽ như nuôi dưỡng mặt trái của thị dục này và khuyến khích nó lấn át những phẩm cách tốt đẹp chân chính, đồng thời xui khiến người ta chỉ chạy theo đối phó với thi cử, mà xem nhẹ thực học. Một nền giáo dục như vậy tuyệt đối không thể là môi trường tốt để bồi đắp lương tâm.

Cuối cùng, một khuynh hướng giáo dục xa rời với giáo dưỡng lương tâm, mà đáng tiếc đang khá phổ biến, đó là lối giáo dục thực dụng, phiến diện. Điều này thật nguy hại, như nhà bác học vĩ đại Albert Einstein (1879-1955) đã từng cảnh báo:

“Dạy cho con người một chuyên ngành thì chưa đủ. Bởi bằng cách đó, anh ta tuy có thể trở thành một cái máy khả dụng nhưng không thể trở thành một con người với đầy đủ phẩm giá. Điều quan trọng là anh ta phải được dạy để có được một cảm thức sống động về cái gì là đáng để phấn đấu trong cuộc đời. Anh ta phải được dạy để có được một ý thức sống động về cái gì là đẹp và cái gì là thiện. Nếu không, với kiến thức được chuyên môn hóa của mình, anh ta chỉ giống như một con chó được huấn luyện tốt hơn là một con người được phát triển hài hòa. Anh ta cần phải học để hiểu những động cơ của con người, hiểu những ảo tưởng và những nỗi thống khổ của họ để tìm được một thái độ ứng xử đúng đắn với từng con người đồng loại của mình cũng như với cộng đồng” (A. Einstein, Thế giới như tôi thấy, NXB Tri thức 2007, trang 48).

 
***
Nếu như vì dục vọng bất kham, mà con người đến với tội lỗi, thậm chí hủy diệt, thì vì lương tâm, mà con người dám hy sinh, gắng hết sức mình, tiễu trừ cái ác, cái phản động-bất lương, nhờ thế mà nhân loại liên tục phát triển, ngày một văn minh và tiến bộ hơn.
Bởi vậy, kết quả của quá trình giáo dưỡng lương tâm sẽ ảnh hưởng tới sự tồn vong của một xã hội, một đất nước, hay đơn giản hơn là sự thành bại trong cuộc chiến giữa “phần người” và “phần con” trong từng cá nhân. Thứ ánh sáng tâm hồn ấy đến từ tiềm thức sâu thẳm, luôn cần được thức tỉnh, bởi nó là thước đo cho cái thang bậc tiến hóa nghiệt ngã của loài người.


 

Thứ Năm, 23 tháng 4, 2020

Giảng dạy là một nghệ thuật hợp tác


Socrates là người đầu tiên cho rằng giảng dạy là một nghệ thuật hợp tác. Socrates so sánh cách dạy của ông với công việc của một bà mụ đỡ đẻ. Chính bà mẹ, chứ không phải bà mụ, mới là người phải chịu đau đẻ để sinh ra đứa bé. Bà mụ chỉ hợp tác trong tiến trình sinh nở ấy, giúp cho bà mẹ sinh con dễ dàng và vệ sinh hơn mà thôi.

Nói một cách khác, thầy giáo, cũng giống như bà mụ, luôn luôn có thể không cần thiết. Trẻ con có thể được sinh ra mà không cần có bà mụ. Kiến thức và sự hiểu biết có thể có được mà không cần có thầy dạy, qua những hoạt động hoàn toàn tự nhiên của tâm trí.

Những thầy cô nào mà tự coi mình là nguyên nhân chính hay duy nhất tạo ra sự học nơi học sinh là những người không hiểu được rằng dạy học là một nghệ thuật hợp tác. Họ cứ nghĩ rằng họ là người sản xuất ra kiến thức hay sự hiểu biết trong tâm trí của học sinh, giống như người thợ đóng giầy làm ra đôi giầy từ miếng gỗ hay miếng da.

Chỉ đến khi nào mà thầy cô ý thức được rằng nguyên nhân chính yếu của sự học là các hoạt động xảy ra trong tâm trí của học trò, thì lúc đó họ mới làm đúng vai trò của người nghệ sĩ hợp tác. Mặc dù hoạt động trong tâm trí của học sinh là nguyên do chính tạo nên sự học, hoạt động này không phải là nguyên do duy nhất. Ở đây người thầy có vai trò là nguyên nhân hợp tác thứ hai đóng góp vào sự học của học sinh.

Nếu, nói theo Hippocrates (ông tổ ngành Y khoa), giải phẫu là một bước đi xa rời khỏi nghệ thuật hợp tác của trị bệnh (con người không còn hợp tác với tiến trình tự nhiên để bảo vệ sức khỏe hay giúp con người mau bình phục sau cơn bệnh), thì theo quan điểm của Socrates, việc giảng dạy bằng giáo huấn, truyền thụ thay vì bằng thảo luận và vấn đáp, cũng là một bước đi xa rời khỏi nghệ thuật hợp tác của giáo dục.


Các thành phố lớn ở Việt Nam bắt đầu nới lỏng giản cách xã hội


Phòng chống Covid-19 đang lan tràn toàn cầu, thay vì chơi thế phòng thủ, chúng ta có thể chơi thế tấn công.”

Ngay cả đối phó hoàn hảo nhất cũng không kết thúc đại dịch được. Chừng nào con vi khuẩn còn sống ở đâu đó, vẫn còn có thể xảy ra trường hợp một du khách nhiễm bệnh châm mồi lửa mới tại các quốc gia đã dập tắt hết các đám cháy. Điều này đã xảy ra tại Trung quốc, Singapore, và những xứ khác ở Á châu, những nơi dường như khống chế được vi khuẩn trong một thời gian ngắn. Với các điều kiện như vậy, đại dịch có thể kết thúc theo ba cách: Cách thứ nhất rất khó xảy ra, cách thứ hai rất nguy hiểm, và cách thứ ba rất kéo dài.

* Cách thứ nhất là mọi quốc gia đều đồng loạt quản chế được con vi khuẩn, như trong trường hợp dịch SARS gốc của vi khuẩn corona năm 2003. Với tình trạng lan tràn của trận đại dịch do vi khuẩn corona gây ra và nhiều quốc gia đang khốn đốn hiện nay, khả năng xảy ra việc các nước đồng loạt khống chế vi khuẩn này có vẻ nhỏ đến mức hầu như không có.

* Cách thứ hai, vi khuẩn này sẽ làm điều các vi khuẩn từng làm trong các trấn đại dịch trước đây. Nó sẽ bùng phát lây lan khắp thế giới, để lại đủ số người sống sót đã miễn nhiễm đến mức cuối cùng nó gặp phải khó khăn tìm không ra người khả dĩ để gây nhiễm nữa. Tình huống “miễn nhiễm bầy đàn” [“herd immunity,”] này sẽ diễn ra nhanh, và vì thế nghe hấp dẫn. Nhưng nó cũng sẽ xảy ra với cái giá khủng khiếp: Covid-19, lây lan nhanh chóng và gây chết người nhiều hơn cúm mùa, và nó cũng có thể sẽ để lại nhiều triệu xác người cùng tàn tích của những hệ thống y tế đã sụp đổ. Nước Anh thoạt đầu tưởng đã có thể dựa vào chiến thuật “miễn nhiễm bầy đàn” này xong rút lại không theo nữa khi các mô hình [lý thuyết dùng toán để tiên liệu diễn tiến dịch lan tràn] cho thấy hậu quả trầm trọng của phương cách này. Nước Mỹ giờ đây cũng có vẻ đang tính áp dụng nó.

* Tình huống thứ ba là thế giới chơi màn hở đâu đánh đó lâu dài với con vi khuẩn, hễ chỗ nào có dịch thì diệt nó cho đến khi sản xuất được thuốc ngừa. Đây là lựa chọn tốt nhất, nhưng cũng là cách kéo dài và phức tạp nhất.

Các khoa học gia có thể dùng khoảng thời gian giữa các đợt giãn cách xã hội này để chế ra thuốc kháng khuẩn. Các bệnh viện có thể có thì giờ để xoay sở để có đủ trang bị y tế cần thiết. Các bộ thử nghiệm có thể được phân phối rộng rãi để ứng phó thật nhanh chóng khi vi khuẩn quay trở lại. và do đó cũng không có lý do gì mà các biện pháp giãn cách xã hội cần được áp dụng rộng rãi và mạnh tay như phải làm hiện nay. Như Aaron E. Carroll và Ashish Jha vừa rồi đã viết: “Chúng ta có thể cho phép các trường học và doanh nghiệp mở cửa thật nhiều, đóng cửa thật nhanh khi thấy việc ngăn chặn vi khuẩn thất bại, rồi mở lại lần nữa một khi biết rõ ai bị nhiễm và cách ly họ. Thay vì chơi thế phòng thủ, chúng ta có thể chơi thế tấn công.”
……..
Thực hiện nới lỏng giản cách xã hội. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc “vui mừng nhưng cảnh giác”, chấp nhận tình trạng sống trong trạng thái có dịch, chuyển sang giai đoạn chống dịch dài hơi hơn.
Việt Nam lựa chọn thế chủ công : cho phép các trường học và doanh nghiệp mở cửa thật nhiều, đóng cửa thật nhanh khi thấy việc ngăn chặn vi khuẩn thất bại, rồi mở lại lần nữa một khi biết rõ ai bị nhiễm và cách ly họ. 


Sáng nay tình trạng ùn ứ trên nhiều tuyến phố do mật độ người tham gia giao thông đổ ra đường tăng đột biến. Trên ảnh phố Tây Sơn (Đống Đa, Hà Nội) lúc 7 giờ 30 phút.