Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2022

Lời tiên tri tự ứng nghiệm (Self-Fulfilling Prophecy)

 

LỜI TIÊN TRI TỰ ỨNG NGHIỆM (SELF-FULFILLING PROPHECY)

 

Niềm tin là một thứ cực kỳ quyền lực!

Các nhà tâm lý học đã phát hiện ra các bằng chứng mạnh mẽ về tác động của những niềm tin và mong đợi lên kết quả, đặc biệt là khi ta bị thuyết phục rằng những mong đợi của chúng ta sẽ thành hiện thực.

Thí nghiệm về hiệu ứng giả dược (placebo) đã chứng minh rằng niềm tin là một thứ cực kỳ quyền lực! các cuộc thử nghiệm điều trị lâm sàng và có hiệu quả mạnh mẽ đến mức người ta bổ sung thêm các biện pháp mới dựa trên hiệu ứng này nhằm thể hiện tác động của nó trên những kết quả thực nghiệm.

 

Lời tiên tri tự ứng nghiệm lần đầu tiên được khám phá và định nghĩa bởi Merton. Ông đặt tên hiện tượng là “Lời tiên tri tự ứng nghiệm” vào năm 1948, định nghĩa là:  

“Một nhận định sai lệch về tình huống làm xuất hiện một hành vi khiến nhận định sai lầm ban đầu trở thành sự thật.”

 

Vòng tuần hoàn của lời tiên tri tự ứng nghiệm.

Khi ta tin vào điều gì đó về chúng ta, chúng ta có khả năng hành xử theo cách đáp ứng lại những niềm tin đó, rồi củng cố chúng và khuyến khích sự xuất hiện của hành vi tương tự.

 

Khi ta tin vào điều gì ở người khác, ta có thể hành xử làm sao để khuyến khích họ xác nhận giả định của chúng ta là đúng, từ đó củng cố niềm tin của ta về họ.

Ta không nghĩ nhiều về những chu kỳ này khi kết quả đầu ra là tích cực, nhưng lại có hẳn một thuật ngữ chung cho các chu trình này khi kết quả đầu ra là tiêu cực: những vòng luẩn quẩn.

Hiện tượng lời tiên tri tự ứng nghiệm còn có thể tìm thấy ở rất nhiều lĩnh vực khác của cuộc sống. Ví dụ cụ thể trong 3 lãnh vực dưới đây:

 

Ví dụ trong giáo dục.

Một ví dụ kinh điển về lời tiên tri tự ứng nghiệm (hay Hiệu ứng Pygmalion) trong giáo dục đến từ nghiên cứu gây chấn động của Rosenthal năm 1968 trên nhóm giáo viên và học sinh.

Người ta đưa cho giáo viên một bản báo cáo rực rỡ về một số học sinh, giáo viên sẽ làm việc với những học sinh này để giúp chúng cải thiện kỹ năng và bổ sung kiến thức, điều này khiến những học sinh đó thực sự có kết quả tốt hơn trong học hành.

 

Không may thay là điều ngược lại cũng không hề sai: khi giáo viên cảnh cáo một số học sinh có hành vi không tốt hay năng lực học tập kém thì họ có thể vô tình đối xử với những học sinh này như thể chúng yếu kém, không thông minh và không vâng lời thực sự.

Học sinh tiếp nhận những nhận xét và mong đợi này và có thể bắt đầu áp nó vào bản thân, từ đó, chúng hành xử theo đúng như niềm tin ban đầu của thầy cô giáo.

 

Ví dụ tại nơi làm việc.

Có lẽ ví dụ nổi bật nhất về lời tiên tri tự ứng nghiệm tại chỗ làm là cuộc phỏng vấn xin việc – một trong những tương tác đầu tiên trong công việc.

Tưởng tượng, hai người có bằng cấp như nhau, nền tảng học vấn như nhau, kinh nghiệm như nhau, kỹ năng như nhau.

Một người cực kỳ tự tin vào năng lực ứng phó với cuộc phỏng vấn, người khi cảm thấy bất an về kỹ năng đi phỏng vấn và dự đoán mình không thể được nhận.

Người tự tin bước vào cuộc phỏng vấn với một nụ cười trên môi và trả lời gãy gọn hết các câu hỏi được đưa ra, trong khi người kia luôn bồn chồn bất an, trả lời ấp úng, ngập ngừng trong lúc nói.

 

Bạn nghĩ ai có khả năng là người được nhận? Rõ ràng là người được phỏng vấn nào tin tưởng bản thân và hành xử dựa trên niềm tin đó sẽ có cơ hội được nhận cao hơn người nào cứ chăm chăm nghĩ mình sẽ thất bại

 

Ví dụ trong các mối quan hệ.

Nếu một người phụ nữ hẹn hò một người đàn ông và cho rằng anh này không thực sự “nghiêm túc trong các mối quan hệ” hoặc “nghiêm túc về hôn nhân”, khả năng cao là cô ta sẽ không coi mối quan hệ là nghiêm túc và kềm lại, không đầu tư quá nhiều thời gian và công sức vào nó.

Vì thiếu đầu tư vào mối quan hệ nên đối phương có thể cảm thấy cô này xa cách và không dành cho mình, anh ta sẽ không theo đuổi cô này lâu bền. Khi anh ta rời đi, cô lại nghĩ rằng quan điểm của mình hoàn toàn chính xác – anh ta không nghiêm túc trong các mối quan hệ.

Tuy nhiên, có lẽ cô ta không nhận ra rằng chính nhận định của cô đã làm ảnh hưởng lên hành vi của bản thân và rằng cô ta thực sự khiến mối quan hệ gẫy vỡ qua hành vi của chính mình.

 

Cách nó định hình giao tiếp?

Khi ta nắm giữ niềm tin và mong đợi trong đầu hay dự đoán về một ai đó, ta thường hành xử với họ sao cho thống nhất với những niềm tin và mong đợi đó. Ví dụ, nếu ai đó nói bạn rằng người mà bạn sắp gặp mặt là một người cực kỳ thú vị và tuyệt vời với nhân cách tỏa sáng, thì khả năng cao là bạn sẽ cư xử hơi khác bình thường một chút, thân thiện hơn, và hỏi nhiều câu hỏi hơn.

 

Khi người này cảm nhận được sự quan tâm bạn dành cho anh ta và thích thú khi được quan tâm thì anh ta cũng sẽ quan tâm ngược trở lại bạn và đưa ra những câu trả lời đầy đủ, chặt chẽ cho câu hỏi của bạn.

Anh ta có thể trở thành một người mà có lẽ không ai mô tả là thú vị hay được gắn nhãn là “nhân cách tỏa sáng”, nhưng sự chú ý của bạn dành cho anh ta khiến anh ta cảm thấy mình thực sự được coi trọng và từ đó hành vi của anh ta cũng điều chỉnh lại cho phù hợp.

 

Tôi hy vọng bạn thấy những thông tin về các lời tiên tri tự ứng nghiệm là thú vị và bổ ích. Chắc chắn đây là một trong những nội dung vừa có ý nghĩa trong bối cảnh học thuật vừa có liên quan mật thiết đến đời sống từng cá nhân.

Thứ Năm, 28 tháng 4, 2022

Yêu thương có thể học?

 

YÊU THƯƠNG CÓ THỂ HỌC?

Yêu thương là khả năng thấu cảm với người khác. Là khả năng hiểu được những gì mà người khác đang chịu đựng, đây cũng là một cấu phần quan trọng thúc đẩy các hành vi thuận xã hội, hoặc mong muốn giúp đỡ người khác.

Có thể yêu thương người khác đòi hỏi phải có lòng thấu cảm và một nhận thức rõ ràng. Bạn cần hiểu được những gì người kia đang phải đối mặt và hiểu được mọi chuyện sẽ như thế nào khi ở trong vị trí của họ.

Cho tới nay, các nhà khoa học cũng chưa hiểu rõ về việc liệu con người ta có thể nuôi dưỡng hoặc “dạy” ai đó yêu thương hay không.

 

Dùng thiền định để dạy về lòng yêu thương.

Trong một nghiên cứu, người ta dạy cho những bạn trẻ làm sao để tham gia vào quá trình thiền định tập trung vào lòng yêu thương, một kỹ thuật cổ xưa của Phật giáo được xây dựng nhằm gia tăng sự quan tâm đến những người khác đang chịu đau khổ.

Vậy chính xác thì thiền định vận hành như thế nào? Trong lúc thiền, người tham gia được yêu cầu tưởng tượng một khoảng thời gian lúc ai đó đang phải chịu đau khổ. Sau đó, họ tập cầu chúc người kia được bình an.

 

Người tham dự cũng sẽ tham gia và trải nghiệm lòng yêu thương cho nhiều nhóm người khác nhau, bắt đầu với một ai đó mà họ dễ cảm thấy yêu thương, như một thành viên trong gia đình hoặc một người bạn thân. Tiếp đó, họ tập cảm nhận lòng yêu thương cho một người xa lạ.

Tham dự viên đều được huấn luyện với thời lượng 30 phút mỗi ngày kéo dài trong hai tuần.

 

Thử nghiệm huấn luyện lòng yêu thương.

Các nhà nghiên cứu muốn biết rằng liệu hoạt động dạy yêu thương này có thể giúp tham dự viên trở nên vị tha hơn hay không. Tham dự viên sẽ phải chơi một trò chơi trong đó họ có thể dành tiền của mình để giúp những người lâm vào cảnh khó khăn.

 

Kết quả của trò chơi cho thấy, những người được dạy yêu thương trước đó sẽ có khả năng dành số tiền của chính mình để giúp những người bị đối xử thiếu công bằng, một minh chứng cho hành động vị tha. Những người chơi này có thể có lòng vị tha cao hơn những người trong nhóm chứng, là những người đã được đào tạo về quá trình tái đánh giá nhận thức trước đó.

 

Tập huấn về lòng yêu thương làm thay đổi não bộ.

Các nhà nghiên cứu cũng muốn xem xem lòng yêu thương sẽ tạo ra dạng tác động nào lên não bộ. Sử dụng kỹ thuật chụp cộng hưởng từ (MRI) cả trước và sau tập huấn, các nhà khoa học đã có thể nhìn thấy được sự ảnh hưởng của loại hình thiền định này lên hoạt động của não.

 

Cái họ quan sát được là, những tham dự viên trở nên vị tha hơn sau khi được huấn luyện yêu thương cho thấy sự gia tăng trong hoạt động của não bộ ở thùy đỉnh, một vùng trong não bộ có liên đới với lòng thấu cảm và thấu hiểu người khác. Những vùng khác trong não bộ có liên đới với những luồng cảm xúc tích cực và điều tiết cảm xúc cũng cho thấy sự gia tăng trong hoạt động.

 

Các nhà nghiên cứu cho rằng cũng như nhiều loại năng lực khác, lòng yêu thương là một kỹ năng có thể được cải thiện qua luyện tập.

Các nhà nghiên cứu tin rằng kết quả của nghiên cứu mang đến những tiềm năng thú vị trong việc giúp đỡ người khác trong việc xây dựng lòng yêu thương, từ đó làm thay đổi cuộc sống của nhiều người.

Người trưởng thành khỏe mạnh không chỉ là đối tượng duy nhất hưởng lợi từ dạng huấn luyện này. Tập cho trẻ em và người lớn yêu thương có thể giúp làm giảm tình trạng bắt nạt và hỗ trợ cho những người đang gặp khó khăn với các vấn đề trong xã hội.

 

Tầm quan trọng của huấn luyện yêu thương.

Tại sao ta cần phải biết yêu thương có thể đạt được qua học tập, thậm chí là cả ở người trưởng thành? Vì lòng yêu thương là một thành tố cốt lõi trong nhiều hành vi thuận xã hội bao gồm đức tính vị tha và anh hùng.

Trước khi ta hành động để giúp người khác, điều quan trọng là ta không chỉ phải hiểu được vị trí của người kia mà ta còn cần phải có động cơ để giải tỏa họ khỏi đau đớn.

 

Theo một số nhà nghiên cứu, tình yêu thương bao gồm 3 yếu tố chính:

Đầu tiên, con người ta phải thấy được vấn đề mà người khác đang gặp phải là nghiêm trọng.

 

Sau đó, họ phải tin rằng những rắc rối này không phải do chủ thể tự làm tự chịu. Khi con người ta tin rằng tình thế khó khăn của một người là lỗi của chính người đó thì họ sẽ ít có khả năng thấu cảm và chìa tay giúp đỡ đối phương hơn.

 

Cuối cùng, con người ta phải có khả năng “hình dung” bản thân mình trong tình huống tương tự, đối mặt với vấn đề tương tự.

Nghe có vẻ như một đòi hỏi quá cao, nhưng nghiên cứu cho rằng tình yêu thương là một thứ chúng ta có thể học được.

Chúng ta không chỉ học được cách làm sao để trở nên trắc ẩn hơn mà ta còn có thể xây dựng năng lực cảm xúc giúp ta hành động và giúp đỡ mọi người.

 

Kết luận.

Trong thế giới tất bật ngày nay, thật quá dễ dàng để thấy rằng con người ta đã đang đánh mất đi kết nối với người khác. Đôi khi sự công kích dữ dội của những tin tức xấu có thể khiến con người ta cảm thấy rằng bản thân họ cũng chẳng làm được gì để thay đổi những điều đang xảy ra trên thế giới này.

 

Tuy nhiên, nghiên cứu lại cho rằng yêu thương là một kỹ năng có thể học được và củng cố được. Có lẽ bằng cách học cách làm tăng tình yêu thương trong ta thì con người mới có thể xây dựng được những kết nối sâu đậm hơn và có ý nghĩa hơn với người khác, từ đây lan tỏa những việc làm tốt, những hành động giúp đỡ và đơn giản là lòng tốt giữa người và người với nhau.