THÔNG MINH XÃ HỘI
Thông minh xã hội đã được nhà tâm lý giáo dục Mỹ
Edward Lee Thorndike định nghĩa khái niệm từ đầu thế kỷ thứ XX. Khả năng hành
động khôn ngoan trong những giao tiếp xã hội, hiểu người hiểu ta, ...
Nếu thông minh trí tuệ được định nghĩa như khả
năng tìm ra giải pháp tốt nhất trong một tình huống thì thông minh xã hội là
khả năng thực hành tốt nhất các liên hệ xã hội trong sự hài hòa.
Nhiều nghiên cứu cho thấy là thông minh trí tuệ
thôi không đủ để thành công trong trường đời – có những người có "tiềm
năng trí tuệ cao" (HPI) nhưng chỉ là những người rất "tầm
thường" trong xã hội.
Thậm chí có người nói rằng thiếu thông minh xã
hội, dù IQ có cao đến mấy, ta cũng chỉ "thông minh bán phần". Giới
truyền thông Âu Mỹ không cần rình rang tuyên bố gì cả: họ chỉ tuyển dụng những
người giàu thông minh xã hội !
Định nghĩa thông minh xã hội
E.L. Thorndike (1920) định nghĩa thông minh này là
khả năng hiểu và điều khiển người khác và khả năng hành động đối xử hài hòa.
Gần đây hơn, Cantor và Kihlstrom (1987) định nghĩa
thông minh xã hội như vốn hiểu biết về xã hội trong đó cá nhân đang sống và khả
năng ứng xử một cách thích hợp.
Có thông minh xã hội không khác nào có máy dò
ra-đa cho ta những dữ kiện cần thiết để từ đó liệu cách phù hợp nhất mà ứng xử
cho thuận lòng mình, hợp hoàn cảnh và vừa lòng người.
Thông minh xã hội cho ta khả năng thích hợp với
mọi người, hòa đồng trong nhóm.
Một giáo viên giàu thông minh xã hội là một giáo
viên biết nhận định chính xác về những đặc thù của học trò mình để đưa bài
giảng dưới dạng thích hợp, đáp ứng được nhu cầu và chờ đợi của chúng, tạo dựng
sự hợp tác trong lớp và không khí phấn khởi học tập.
Dĩ nhiên,
bên cạnh đó, giáo viên này cũng phải có khả năng chuyên nghiệp cao. Nhưng
chuyên nghiệp thôi không đủ.
Làm sao đo thông minh xã hội ?
George Washington social intelligence test, (GWSIT
Hunt, 1928) là trắc nghiệm thông minh xã hội của Đại học Washington. Thang này
đưa ra 6 mục cần đo:
1. Trí nhớ gương mặt, tên quen và những hoàn cảnh
đã gặp
2. Khả năng quan sát những tình huống và kể lại
các quan sát này
3. Khả năng hiểu các nghĩa bóng, nghĩa ngầm mà
người đối diện đang dùng
4. Khả năng nhận diện trạng thái tâm lý của người
đối diện
5. Khả năng hiểu và thanh lọc các thông tin xã hội
6. Biết khôi hài.
Thật sự, đo các items này không dễ vì khó để phân
biệt những khả năng phức tạp và đa diện ở trong đó. Rốt cuộc, tới giờ, chưa có
một trắc nghiệm khả thi để đo thông minh xã hội.
Về phía thực hành, Daniel
Goleman đưa lý thuyết thông minh xã hội vào ứng dụng cho quản lý nhân sự. Ông
tổ chức những lớp học để hoàn thiện thông minh xã hội. Việc làm của ông thuộc
phạm vi ứng dụng dù cơ sở khoa học chưa hoàn toàn vững chắc.
Thông minh xã hội là một khả năng. Như bất cứ một
tri thức nào khác, ta có thể vun trồng. Các lớp ông Goleman dạy đúng thôi,
nhưng không đúng tuyệt đối: một phần thông minh xã hội cũng như mọi thông minh
khác, có cơ sở sinh học (tế bào thần kinh và cấu trúc não, có học thêm mấy cũng
ít thay đổi), mặt khác thông minh xã hội là khả năng của một cá nhân trong một
hoàn cảnh thì làm sao dự trù hết tất cả các hoàn cảnh để "dạy" ?
Cái gì cần cho một xã hội công nghiệp và hậu công
nghiệp ?
Ở châu Âu, trong các hướng nghiệp cho ngành học và
các phỏng vấn tuyển nhân sự, các tâm lý gia thường cho vào các trắc nghiệm
nhiều câu hỏi về thông minh xã hội.
Các ngành nghề như cán sự xã hội, điều dưỡng, sư
phạm, y tế, chăm sóc trẻ con và người cao tuổi, thẩm phán, quản lý nhân sự, bán
hàng, tiếp thị... cần nhiều thông minh xã hội.
Một khái niệm khác, tối cần thiết cho các nghề y
tế và giáo dục là "sự thương cảm" (empathie), tức là khả năng hiểu và
chia sẻ trạng thái cảm xúc của người đối diện, tự đặt mình vào hoàn cảnh của
người đối diện: làm sao săn sóc một người bệnh hay dạy một trẻ nhỏ nếu không
thông cảm người ấy hay đứa bé ấy – hiểu những nhu cầu, đau đớn hay khổ sở của
họ?
Đó là chưa nói tới phát minh gần đây về những
"tế bào thần kinh gương" hay "tế bào thần kinh phản
chiếu" (neurones miroirs) làm cho thông minh xã hội của một người có
thể lan hay lây sang người khác:
khi nhận được "tín hiệu" thông minh của
ta, tế bào thần kinh phản chiếu của người đối diện sẽ phản ứng ... "trên
cùng tần số", sẽ cùng "thông minh". Sinh hoạt xã hội sẽ hài hòa
hơn, gần như cái kiểu "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" bên
ta vẫn hay nói.
Kết luận
Để sống tốt với người khác, dù làm nghề nào, kể cả
"nghề" làm ... cha mẹ, cũng cần thông minh xã hội (phải thương và
hiểu con thì mới dạy chúng được vì dù là con của chúng ta, mỗi cháu đều có
những cá tính khác nhau!).
Đó là khả năng nghe người khác, hiểu người khác,
sẵn sàng chấp nhận ý tưởng mới, tự đặt lại vấn đề, kính trọng người khác,
thương người, ... những khả năng rất cần cho mỗi một chúng ta.
Thiếu những khả năng ấy sẽ dẫn tới hiện tượng mà
xã hội học gọi là la déliance (sự rời ra) như "thiếu chất keo xã
hội". Những người làm công tác lãnh đạo, quản lý xã hội càng cần có tư
chất thông minh xã hội.
DANTRI