Chủ Nhật, 19 tháng 12, 2021

Câu chuyện Nguyễn Thị Khương vợ của nhà thơ Thế Lữ


 Thế Lữ và vợ khi về già

 CÂU CHUYỆN NGUYỄN THỊ KHƯƠNG VỢ CỦA NHÀ THƠ THẾ LỮ


Thế Lữ tên thật Nguyễn Thứ Lễ, thời trẻ chàng trai Nguyễn Thứ Lễ thường xuyên đau ốm, nên nhiều người khuyên nên sớm cưới vợ. Dân gian vẫn quen gọi tập quán ấy là “xung hỷ”. Con dâu út của Thế Lữ là bà Phạm Thảo Nguyên chia sẻ: “Khi bố được 17 tuổi, bà nội về một làng đạo ở Hà Nam, đi xem mặt các cô gái trong làng, bà chọn mẹ chồng tôi, một cô gái hiền lành ngoan đạo Nguyễn Thị Khương 19 tuổi cho con trai của bà. Cưới con dâu về, theo tục lệ, bà nội truyền nghề “bà lang” cho. Vì vậy, mẹ vừa phải đi chợ lo cơm nước cho toàn gia đình, nuôi con nhỏ, cho con bú, vừa phải làm thuốc để bán, vừa đi khám bệnh cho thuốc khi có khách mời (cũng có lúc, có thêm người giúp việc). Vì vậy mẹ học được tính làm việc rất sạch sẽ, kỹ lưỡng, cẩn trọng khi nuôi trẻ, và làm cơm nước khéo léo.

.

Bà Nguyễn Thị Khương sinh hạ cho nhà thơ Thế Lữ cả thảy 4 người con, 3 trai 1 gái. Bà chấp nhận ở nhà thay chồng chăm sóc mẹ già và nuôi dạy con thơ, để Thế Lữ được thỏa sức phô diễn tài nghệ trên Hà Nội. Vài tháng, Thế Lữ mới về nhà dăm bữa, rồi lại đi theo tiếng gọi văn chương và sân khấu. Bà Nguyễn Thị Khương không biết viết, nhưng biết đọc. Mỗi lá thư của chồng gửi về, đều được bà cất giữ rất kỹ, để lâu lâu đem ra đọc lại cho bớt nỗi ngóng trông và thương nhớ.

 


Tuy lãng đãng gió trăng, nhưng nhà thơ Thế Lữ cũng cảm nhận được những vất vả mà vợ mình phải chịu đựng khi sống với mẹ chồng khó tính. Ông giải thích cho vợ hiểu rằng, do tình duyên của mẹ gặp nhiều trắc trở nên việc hành hạ con dâu cũng vì những uất ức không thể giãi bày với ai.

.

Để cải thiện quan hệ mẹ chồng – nàng dâu, Thế Lữ viết một truyện ngắn mổ xẻ vướng mắc ấy và giả vờ là tác phẩm của người khác, rồi đọc cho mẹ nghe. Thế Lữ có ngờ đâu bà lang rất tinh ý, nghe chừng mấy đoạn đã cầm lấy cái tráp đựng trầu dằn mạnh xuống phản một cái rầm:

“À, thế ra anh lại muốn dạy tôi đấy!”. Thế Lữ sợ mẹ giận, vội vàng chạy ngược lên Hà Nội. Còn lại bao nhiêu tai tương tiếp tục do bà Nguyễn Thị Khương gánh hết.

.

Bà Khương kể: “Hồi trẻ, bố hay nóng giận. Những khi giận, bố chỉ nện giầy nặng thêm lên thôi. Mẹ nghe tiếng giầy là biết ngay, tránh không nói gì hết cho đến khi cơn giận của bố tan đi”. Và bà còn kể: “Các con đã biết chuyện mẹ là người sung sướng nhất đời chưa?

.

Có một lần, mẹ đi tàu hỏa, có nói chuyện với một người chung toa. Khi biết mẹ là vợ ông Thế Lữ, người đó nói: “Giời ơi! Thật thế à? Chị thật sung sướng quá, chị là người sung sướng nhất đời!”.

 

Thứ Bảy, 18 tháng 12, 2021

Giá trị của Phật giáo trong thế giới tân tiến hiện đại


 GIÁ TRỊ CỦA PHẬT GIÁO TRONG THẾ GIỚI TÂN TIẾN HIỆN ĐẠI

Trong thời đại tân tiến ngày nay, hình như chúng ta có thể thụ hưởng tất cả mọi điều chúng ta muốn nếu chúng ta siêng năng làm việc và có tiền. Tiền bạc chắc chắn sẽ mang lại cho chúng ta nhiều tiện nghi văn minh, có thể giúp chúng ta thâu ngắn giờ làm việc và tìm thấy nhiều thú vui trong cuộc sống hàng ngày.

Tuy nhiên đồng thời, chúng ta thấy rằng những tiện nghi tân tiến đó không giải quyết được những vấn đề thiết yếu cho đời sống chúng ta. Một số đông người đang đau khổ vì những lo nghĩ vật chất cũng như tinh thần đã làm lay chuyển căn bản cuộc sống của họ. Ðời sống chúng ta còn luôn bị đe dọa không dứt bởi những làn sóng bất an và sợ hãi. Người hôm qua chúng ta gặp có thể bị tai nạn và chết hôm nay. Và ngày mai, một trận thế chiến khác biết đâu lại chẳng xảy ra để tận diệt toàn thể chúng ta.

Khi chúng ta nhận thức được rằng nhu cầu vật chất là thiết yếu, nhưng không phải là phương tiện tuyệt hảo có thể làm cho cuộc sống chúng ta phong phú, Nhiều người quá chú trọng đến công tác xã hội gần như quên hẳn những vấn đề khác của đời sống tôn giáo. Có những kẻ lại chỉ lo nghĩ đến việc cầu xin mê tín dị đoan và chấp nhận mù quáng mọi giáo điều của giới lãnh đạo tinh thần trong tôn giáo. Xung quanh chúng ta có nhiều màu sắc tôn giáo đang mời gọi tâm hồn chúng ta.

Phật Giáo đã nổi bật hơn các tôn giáo khác. Phật Giáo là một tôn giáo – thế giới và là một phương pháp sống do Ðức Phật Thích Ca chỉ bày khoảng 2.500 năm về trước. Ðiều mà Ngài đã chứng ngộ là một giáo lý độc nhất chưa có vị Hiền Thánh nào trên thế giới này tìm ra. Chính Ngài đã có một kinh nghiệm khổ đau về mọi vấn đề cuộc sống và nhờ ở sự tu tập tranh đấu bản thân, Ngài đã giác ngộ được con đường tận diệt chúng. Con đường đó là sự nhận thức về “Bản Thể Ðồng Nhất Của Sự Sống” mà không một tôn giáo Tây Phương nào có thể tìm ra.

Khi đức Phật sắp nhập diệt, Ngài đã truyền dạy cho đức A Nan một trong những đại đệ tử của Ngài như sau: “Này A Nan! Ngươi hãy tự làm ngọn đuốc cho chính người. Ngươi hãy quay về nương tựa nơi chính ngươi. Ðừng tìm nơi nương tượng nào khác ở ngoài. Hãy nắm vững chân lý làm ngọn đèn soi sáng cho ngươi. Hãy nắm vững chân lý làm nơi nương tựa cho ngươi. Hãy tinh tấn để tự giải thoát”  Trải qua hơn 2.500 năm. Phật giáo dù đã được phát triển thành nhiều hệ thống tư tưởng và học thuyết nhưng không ngoài cứu cánh là khai thị cho chúng sanh nhận thức được “Bản Thể Ðồng Nhất Của Sự Sống” qua đức tính bình đẳng Từ Bi và Trí Tuệ của đức Phật.

Đại đức Kodo Matsunami 

Trích tạp chí Tiếng Nói Phật Giáo”

Câu đối của Giáo sư Vũ Khiêu tặng Hoa hậu Kỳ Duyên


 CÂU ĐỐI CỦA GIÁO SƯ VŨ KHIÊU TẶNG HOA HẬU KỲ DUYÊN

Không ít người đã hỏi và bàn luận về câu đối mà giáo sư Vũ Khiêu tặng hoa hậu Kỳ Duyên khi cô tới thăm ông vào dịp Tết (Ất Mùi 2015). Các vị cao niên nho sĩ thì thâm thúy, viết đấy mà dường như cứ muốn để người ta tự cảm thụ lấy vậy, ai hiểu sao cũng được họ chẳng quan tâm. Dẫu vậy thì với tôi, câu đối viết tặng Kỳ Duyên là một trong những câu đối hay, tinh tế và thâm thúy nhất của giáo sư.

Vũ Khiêu vốn nổi tiếng với những câu đối tặng bạn bè, người thân. Đến giờ vẫn vậy, dù ông đã trăm tuổi mà mỗi dịp xuân về, nhà vẫn chật kín những người đến xin chữ. Ông thường viết nhiều câu đối bộc trực, nói thẳng ý mình, nhất là những câu nặng về tình, về nghĩa. Chẳng hạn, đến viếng giáo sư Phạm Huy Thông, người bạn tri kỷ vốn đầy tương đồng tương hợp, lại là thi sĩ của bài “Tiếng địch sông Ô” nổi tiếng một thời, ông viết:

Tưởng cầm kỳ thi họa thong dong bỗng bát ngát Ô giang hồn Hạng Tịch

Đang nam bắc đông tây hò hẹn sao vội vàng tiên cảnh gót Lưu Lang.

Người đọc vừa ngậm ngùi vừa nhận ra phong thái lãng tử ngày nào của chàng thi sĩ Huy Thông đầy tài hoa mà mơ mộng.

Vũ Khiêu cũng viết những câu đối thâm thúy, sâu sắc pha âm hưởng hài hước mà phải suy nghĩ đôi chút mới thấu hiểu hết.

Trường hợp câu đối tặng Kỳ Duyên lại là một trường hợp đặc biệt. Có lẽ vì thế mà nó gây ra không ít tranh luận. Thực ra, viết câu đối mà để tặng người đẹp mà lại đẹp nhất nước nữa thì thật khó. Điều gì là tiêu biểu nhất cho một người đẹp nhỉ. Tất nhiên là nhan sắc rồi. Vậy thì tặng người đẹp hẳn là phải ca ngợi nhan sắc rồi. Vũ Khiêu viết

“TRÍ NHƯ BẠCH TUYẾT TÂM NHƯ NGỌC”.

Câu này khen đẹp thì đúng rôi, nhưng nếu chỉ là khen đẹp thì không đủ, lại nghe như hơi sáo. Tại sao lại như vậy, Vũ Khiêu vốn là bậc thầy về ngôn từ mà.

Kỳ Duyên hơn chắt nội gái của cụ Khiêu có vài tuổi. Tức là cô chỉ vào loại cháu chắt của cụ. Vậy thì cô còn trong sáng lắm. Ở đây vế đối không còn là sự ca ngợi sắc đẹp nữa rồi. Ôi, người đẹp đâu phải chỉ là đẹp, bởi vì nói sâu ra “hồng nhan bạc mệnh”, người đẹp là đa đoan, là nàng Kiều bán mình chuộc cha, là Tây Thi oan trái, là Chiêu Quân cống Hồ, là Huyền Trân Công Chúa bi ai, là Nguyễn Thị Lộ đầu rơi máu chảy, là Hồ Xuân Hương “chém cha cái kiếp lấy chồng chung”… Cuộc đời luôn phũ phàng với người đẹp mà mấy ai thấu hiểu.

Vũ Khiêu muốn nói với Kỳ Duyên, con đẹp lắm, không chỉ là vẻ ngoài đâu mà còn cả  tâm hồn nữa, tâm hồn con trong như ngọc. Nhưng mà con không biết đâu, trí tuệ, bản lĩnh của con, dù có đẹp như vẻ ngoài đi chăng nữa thì cũng mới chỉ  như bông tuyết trắng mà thôi, còn quá non nớt, dại khờ, quá yếu ớt, mảnh mai trong cuộc đời phũ phàng, bon chen, đầy những cạm bẫy và miệng lưỡi thị phi này. Cụ muốn tìm một lời khuyên giải cho người đẹp còn quá non dại kia nhưng thật khó khăn quá.

Là người nhân đạo, cũng rất dễ bị tổn thương như cô, cụ hiểu mình không thể nói một cách phũ phàng rằng con ơi, hãy cẩn thận, hồng nhan là bạc mệnh đấy. Cụ tìm đến ông Lý Bạch trong vế đối thứ hai với nguyên văn một câu thơ mà ai cũng biết. Nhưng câu thơ này cũng chỉ là ca ngợi người đẹp thôi, chẳng phải để khuyên bảo gì. 

“VÂN TƯỞNG Y THƯỜNG HOA TƯỞNG DUNG”,

(nghĩa là mặt tưởng là hoa, áo ngỡ là mây) 


 Cụ ghé tai Kỳ Duyên rồi bảo nhỏ: “Ông chỉ tặng con vế thứ nhất thôi, còn vế hai là Lý Bạch tặng con đấy”

Kỳ Duyên nghĩ như mình được khen vậy. Cô sẽ rất vui. Nhưng rồi về nhà, một lúc tĩnh tâm nào đó, cô có bất ngờ đọc Lý Bạch chăng, hoặc có lúc nào đó cô sẽ ngồi một mình và nhận ra được chăng, cái người đẹp “vân tưởng y thường hoa tưởng dung” mà họ Lý ngợi ca ấy mới thật là người bất hạnh biết bao, bởi nàng chính là Dương Quý Phi. Nàng đã phải trả giá cho nhan sắc bằng chính tính mạng của mình. cuộc đời đã đưa nàng lên chín tầng mây ngũ sắc để rồi lại giết chết nàng một cách tàn bạo và oan nghiệt nhất.

Vũ Khiêu đồng cảm với Kỳ Duyên bằng tâm hồn và trí tuệ của một người trí thức, một người yêu vẻ đẹp tinh khiết, vẻ đẹp luôn gắn với sự khổ đau. Bởi lẽ trí thức chân chính cũng giống như người đẹp vậy, đều đa đoan bạc mệnh cả. Nguyễn Trãi từng viết “Cổ lai thức tự đa ưu hoạn”, nghĩa là xưa nay những người trí thức bao giờ cũng gặp nhiều ưu hoạn, và bản thân Nguyễn Trãi cũng đã không chỉ gặp ưu hoạn đơn thuần mà còn cùng cả họ tộc rơi đầu vì chính tri thức của mình. Vũ Khiêu cũng đã từng ưu hoạn như vậy với cuốn “Đẹp” viết vào những năm sáu mươi của thế kỷ trước, khi nó đã cùng với tác giả bị vùi dập tơi bời…

Bởi vậy câu đối của giáo sư Vũ Khiêu không phải chỉ là lời chúc mừng thường tình cho người đẹp, mà sâu xa hơn, nó là một sự ngậm ngùi, một sự thương cảm cho một cánh mỏng manh, non nớt trước cuộc đời đầy giông gió.

----------

GS Vũ Khiêu tên thật là Đặng Vũ Khiêu (1916 - 2021), Anh hùng lao động, một học giả nghiên cứu về văn hóa Việt Nam, Viện trưởng đầu tiên của Viện Xã hội học Việt Nam,  nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội (nay là Viện KHXH Việt Nam), nguyên Phó Giám đốc TTXVN.

Là người có biệt tài viết câu đối và văn tế biền ngẫu (phú, văn tế, văn bia), một bậc thầy về thể văn phú, nhất là thể hiện về đề tài lịch sử, về văn hiến dân tộc. Ông đã để lại cho đời những công trình đồ sộ về triết học, đạo đức học, văn học, nghệ thuật, văn hóa, xã hội và lịch sử.

Tiểu Linh Bảo

Báo Lao Động 28/02/2015

Ảnh Ngọc Định: Ngôi sao.

Thứ Sáu, 17 tháng 12, 2021

Văn minh, công nghệ và lằn ranh đạo đức

 

VĂN MINH, CÔNG NGHỆ VÀ LẰN RANH ĐẠO ĐỨC

Ngày nay, con người sống và làm việc mỗi lúc mỗi gắn chặt với công nghệ cao, với kỹ thuật số, với kỷ nguyên kết nối vạn vật... Vì thế, đòi hỏi con người phải có khả năng nhận thức, hiểu biết, kỹ năng sống, kỹ năng làm việc nhóm... để hòa nhập và phát triển.

Cũng từ đó, chúng ta cần một lối sống văn minh mới và từ bỏ lối sống lạc hậu vốn đã đeo bám và ăn sâu vào tâm trí rất nhiều thập niên qua. Một lối sống văn minh với công nghệ 4.0 sẽ là lẽ đương nhiên trong bối cảnh xã hội chúng ta ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới.

Tuy mới tiếp cận, nhưng những tiện ích công nghệ mang lại cho con người và xã hội là không nhỏ và không thể phủ nhận. Chỉ với một chiếc điện thoại thông minh có kết nối mạng là ta có thể kết bạn, xem tin tức, tìm kiếm tài liệu, học tập, điện thoại bằng hình ảnh, chăm sóc cây trồng vật nuôi... từ rất xa, thậm chí từ bên kia quả địa cầu.

Sự tiện lợi, tiện ích do công nghệ, do kỷ nguyên số mang lại cho con người vô cùng lớn. Nhưng cũng do công nghệ, do kỷ nguyên số mà con người phải đối mặt với cuộc sống từ không gian mạng ảo đang từng bước bước ra cuộc đời thực. Đó là các tệ nạn xã hội, hoạt động tội phạm lây lan nhanh, thu hút nhiều người tham gia hơn!...

Văn hóa ứng xử, trách nhiệm cá nhân của người tham gia trên không gian mạng ngày càng bị tha hóa nghiêm trọng dẫn đến các hành vi ứng xử ngoài đời thực cũng bị tha hóa theo, gây bất ổn cho xã hội. Đơn cử là các hiện tượng “giang hồ mạng”, “anh hùng mạng” gần đây nhất đã làm xôn xao dư luận. Các hành động và ứng xử của những cá nhân này không chỉ gây nên sự hoang mang trong xã hội mà còn có dấu hiệu vi phạm pháp luật và nguy hại hơn là kéo theo rất nhiều người cùng vi phạm pháp luật.

Ở khía cạnh cá nhân, công nghệ 4.0 đã mang lại một môi trường thuận lợi cho sự phát triển. Nó cho phép chúng ta trò chuyện với người thân, bạn bè khắp năm châu bốn bể; cho phép tìm kiếm kiến thức mình cần và trao đổi kiến thức với nhau; cho phép nâng cao hưởng thụ những giá trị giải trí (xem phim, nghe nhạc, đọc báo...) bất cứ lúc nào muốn và còn cho phép kiếm tiền trên nền tảng hệ sinh thái các công nghệ này. Vì thế, đòi hỏi các cá nhân phải có cách sống trách nhiệm, có văn hóa, có đạo đức.

Tuy nhiên, lại có không ít người “lụy” và lợi dụng sự văn minh tiến bộ đó mà “a dua” trào lưu công nghệ đánh bóng mình một cách thô thiển, kệch cỡm, lố bịch... trong sự thỏa mãn đắc thắng nông cạn. Một số người không tên tuổi nhưng muốn nổi tiếng nhanh đã bất chấp tất cả để được “nổi tiếng” nhằm mưu lợi cá nhân. Hay như các “nghệ sĩ” trong lĩnh vực showbiz đã có một chút tiếng tăm rồi nhưng muốn nổi tiếng hơn nữa nhưng không bằng cách lao động nghệ thuật chân chính mà chọn cách gây ra những vụ “scandal”...

Cuối cùng rồi tất cả cũng đã bị bóc mẽ, kẻ thì “ôm hận” trở về với đời thực, kẻ thì mất hết danh tiếng và bị tẩy chay... Tất cả họ đã nhận được rất nhiều “gạch, đá” đủ lớn để xây cho mình một “nấm mồ” danh vọng bất chính và ảo tưởng do chính mình tạo ra!

Nếu như muốn có được quả ngọt thì phải trồng cây lành, gieo điều thiện đức thì chắc chắn họ sẽ được người đời trân quý. “Thiên đường” không ở đâu xa mà ở quanh ta, nơi chỗ ta nằm, nơi ta ngồi với bạn hữu, một bữa ăn no đủ, một giấc ngủ an nhiên, một đồng tiền sạch chi tiêu mà không nơm nớp bạc đầu suy nghĩ.

Cho dù có trình độ, học thuật cao nhưng tâm địa vô minh che chắn đạo đức, tình người vắng bóng, bản thân người ấy không chóng thì chầy cũng nhận nghiệp quả xấu. Triết lý nghiệp báo của Đức Phật chính là đuốc tuệ soi tâm. Chỉ có “Tình thương đối với tất cả chúng sanh là thứ duy nhất để tạo nên thiên đường ở thế gian...”

(Sri Dahammananda).