KỲ ĐỒNG -THÔNG MINH - CHÍ KHÍ
Kỳ Đồng vốn tên là
Nguyễn văn Cẩm (1875- /1929), người làng Trung Lập, phủ Tiên Hưng, tỉnh Hưng
Yên. Sinh cuối đời Tự Đức, thiên tư rất là đĩnh ngộ. Lúc bé, thân phụ là một
nhà nho uyên bác bắt đầu dạy sách Tam tự kinh.
Lên mười, ngũ kinh, tứ thư đều thông, vì ông chỉ trông qua là nhớ, mỗi ngày học
đến trăm trang sách.
.
Năm 1882, nhân có kỳ hạch ở tỉnh Hưng Yên, để năm sau thi hương ở trường Nam
Định. Khi các quan tỉnh và huấn đạo, giáo thụ, hội đồng ở Văn miếu, thấy ông
còn nhỏ (mới 8 tuổi) mà đã đi thi đều lấy làm lạ, cho gọi đến để hỏi quê quán.
Ông thưa ở làng Trung Lập, phủ Tiên Hưng. Các quan thấy ông còn ít tuổi mà đã
có kỳ tài, bèn làm sớ trong đó biên cả hai câu đối dâng về kinh.*
.
Vua Tự Đức, xem thấy bèn sắc cho hai chữ Kỳ Đồng, và phê:
Tên này còn ít tuổi, chưa thể thu dụng được, nay giao cho tỉnh Hưng Yên
dạy bảo, dành để khi lớn lên, nhà nước sẽ dùng.
Vì có chữ vua cho nên mọi người gọi ông là Kỳ Đồng.
.
Từ đấy tiếng tăm lừng lẫy, ai ai cũng triển vọng nơi ông. Cách mấy năm sau,
Pháp chiếm Bắc kỳ đặt cuộc bảo hộ. Ông vốn có chí khí, lại được mọi người tin
phục, bèn mộ những thanh niên suýt soát tuổi với mình, lập đạo quân kéo lên
khôi phục tỉnh thành. Người Pháp thấy một đoàn thiếu sinh, cho là trò trẻ con
không quan tâm, cứ để vào tỉnh rồi cho lính ra bắt. Tra hỏi thì mọi người đều
khai ra Kỳ Đồng. Pháp tha mọi người về, còn giữ ông lại, cho đi du học ở thủ đô
An giê của Algérie lúc đó thuộc Pháp, Tại An giê, Kỳ Đồng tốt nghiệp tú tài
khoa học và văn chương. có lẽ ông là người đầu tiên đỗ tú tài Pháp.
.
Kỳ Đồng học tại trường trung học Louis Legrand trong 9 năm, từ tháng 10 năm 1887 đến tháng 9 năm 1896. Trong thời gian này, ông quen và thân thiết với Quận công Ưng Lịch (Hàm Nghi) lúc đó cũng đang bị lưu đày tại đó và từng đến thăm viếng cựu hoàng.
.
Đỗ tú tài Pháp muốn
cho ông về nước làm quan. Ông từ chối:
- Tôi về làm quan không có ích gì cho dân cả, nay xin về mở mang việc làm ruộng
có lẽ hơn. Xin chính phủ cho một khu ruộng ở Bắc kỳ để khẩn hoang.
Người Pháp chiều ý, tư về phủ thống sứ Bắc kỳ, để ông được tuỳ ý chọn khu đất
nào muốn khai khẩn.
.
Năm Đinh Dậu (1897), đời Thành Thái, ông lên Yên Thế mở đồn điền. Nhiều người theo ông, thành một phong trào di cư lập ấp. Lại tiện chỗ đồn điền gần với đất Phồn Xương, rất dễ cho ông liên lạc với Đề Thám. Pháp thấy thế có ý lo ngại, bèn bắt ông đi đầy ở quần đảo Marquesas. Ông mất ở đảo Tahiti (Papeete).
Ông lập gia đình với người bản xứ, có hai người con là Paul Văn Cẩm và Thérèse Văn Cẩm.
Ông mất năm 1929 tại Tahiti. Khi ông mất, để lại cái nón lông cốc chóp bạc ( nước ta cái nón chóp bằng lông chỉ có những bậc quí phái đương thời mới dùng )
----------
*Quan tỉnh ra hai câu đối, ông đối lại quá hay, các quan thấy ông còn ít tuổi
mà đã có kỳ tài, bèn làm sớ trong đó biên cả hai câu đối dâng về kinh.
.
Đứng giữa làng Trung Lập.
Ông đối ngay:
.
Dấy trước phủ Tiên Hưng.
Câu ra, chữ trung lập, nghĩa là đứng giữa.
Ông đối chữ tiên hưng, nghĩa là dấy trước.
.
Các quan tấm tắc khen hay, ra câu nữa:
Khổng môn truyền đạo chư hiền, Tăng tử, Tử tư, Mạnh tử
Ông đối:
.
Chu thất khai cơ liệt thánh, Thái vương, Vương quý, Văn vương.
.
- Các đấng hiền truyền đạo lý đức Khổng, có Tăng tử, Tử tư, Mạnh tử.
- Mọi ông thánh mở cơ nghiệp nhà Chu, có Thái vương, Vương quý, Văn
vương.
.
Ông đối được hay, là có ba chữ Vương, Vương quý chữ Vương ở trên. Còn Thái
vương, Văn vương, chữ Vương ở dưới. Hội đồng đều lấy làm khen ngợi.