Thứ Tư, 23 tháng 9, 2020

Lời nói dối là dấu hiệu phát triển nhận thức của trẻ

 

LỜI NÓI DỐI LÀ DẤU HIỆU PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC CỦA TRẺ

Các xu hướng nuôi dạy con cái thường hay “cuốn theo chiều gió”, tuy nhiên đa phần người trưởng thành sẽ đồng ý rằng trẻ mẫu giáo đang tập nói không nên nói dối. Tuy nhiên hoá ra học nói dối nhìn chung lại là một phần quan trọng trong học tập – và là điều cần tách bạch khỏi những khái niệm đạo đức về vấn đề này.

Khả năng “bẻ cong sự thật” là một cột mốc phát triển quan trọng, tương tự tập đi hay tập nói. Một nghiên cứu do Kang Lee, Giáo sư Tâm lý tại ĐH Toronto, đứng đầu cho thấy nói dối thường xuất hiện sớm nơi các trẻ “lớn trước tuổi”. Vào khoảng 2 tuổi, 30% trẻ bắt đầu thử nói dối cha mẹ. Vào năm lên 3, 50% trẻ thường xuyên nói sai sự thật. Nói dối vặt rất phổ biến trong số 80% các trẻ 4 tuổi và trở thành “bình thường” nơi trẻ 5 – 7 tuổi.

Nói cách khác, Theo TS. Lee, nói dối chẳng có gì là khác thường nơi trẻ nhỏ. Bất ngờ hơn nữa, các trẻ “vẽ chuyện” lại có các ưu thế về nhận thức so với các trẻ “thành thật”. “Nói dối cần có hai thành phần. Trẻ cần có khả năng hiểu người khác nghĩ gì – để nắm được họ biết và không biết điều gì. Chúng tôi gọi đây là khả năng ‘xây dựng học thuyết về tâm trí’. Các trẻ có khả năng này thường sẽ nói dối giỏi hơn.”

Yêu cầu thứ hai, theo TS Lee, là khả năng điều hành – năng lực xây dựng trước kế hoạch và kiểm soát các hành động không mong muốn. “Nhóm 30% trẻ dưới 3 tuổi ‘biết’ nói dối có khả năng điều hành tốt hơn,” “cụ thể là khả năng ức chế sự thôi thúc nói ra sự thật và chuyển sang nói dối.”

Ông còn nhận xét thêm, khả năng tư duy tinh tế đó là dấu hiệu cho thấy các trẻ biết nói dối sẽ thành công hơn trong học tập và trong việc “xử trí” khi chơi với các trẻ khác.

Dù mấy chục năm nay TS Lee đã biết rằng các trẻ giỏi trong việc “xây dựng học thuyết tâm trí” cũng sẽ nói dối tốt hơn, tuy nhiên ông không biết cái nào có trước cái nào. Vậy liệu nói dối có giúp trẻ đoán được người khác nghĩ gì tốt hơn không? Vì dù gì thì không nói thật cũng giúp trẻ “thu hoạch” được những phản hồi từ người lớn và những phản hồi đó sẽ tiết lộ đôi điều về tâm trí của họ. Hay nếu chúng ta dạy ai đó cách hình dung ra suy nghĩ của ngươi khác,  họ sẽ trở nên những người dựng chuyện hoàn hảo hơn? TS Lê đã kiểm tra nhưng phát biểu trên trong một thực nghiệm được xuất bản trên tạp chí Psychological Science tháng /2016.

Luyện tập khả năng “xây dựng học thuyết về tâm trí” đã trở thành một công cụ khá thông dụng trong làm việc với trẻ có rối loạn phổ tự kỷ và với các trẻ có những vấn đề hành vi khác. Việc luyện tập sẽ đưa trẻ đi qua các tình huống khác nhau, qua đó giúp trẻ khám phá ra rằng người xung quanh có thể có những hiểu biết và niềm tin khác biệt với chính trẻ. Trong thực nghiệm của TS Lee, các trẻ được cho đọc những câu chuyện có nhiều chi tiết về trạng thái tinh thần của người khác. “Chúng tôi tự hỏi, các tác dụng phụ ở đây là gì? Liệu chúng ta có thể làm tăng lời nói dối thông qua luyện tập xây dựng học thuyết về tâm trí hay không?” TS Lee cho biết.

Sau khi đã kiểm tra trí thông minh, khả năng nói dối và chức năng điều hành của trẻ, ông cùng nhóm các nhà nghiên cứu đến từ Canada, Mỹ và Trung Quốc đã chia 58 trẻ mẫu giáo trong một thành phố tại Trung Quốc thành hai nhóm. Một nhóm sẽ trải qua 6 buổi luyện tập xây dựng học thuyết về tâm trí, nhóm còn lại sẽ trải qua số buổi học tương đương nhưng lại về các kỹ năng giải quyết vấn đề về số và không gian.

Sau sáu buổi trong suốt 8 tuần, các nhà nghiên cứu nhận ra rằng các trẻ trong nhóm xây dựng học thuyết về tâm trí không chỉ nói dối giỏi hơn trước mà còn giỏi hơn một cách có ý nghĩa so với các trẻ trong nhóm còn lại – nhóm kiểm soát. Tác động trên kéo dài trong một tháng, TS Lee dự tính sẽ tiếp tục theo dõi để tìm hiểu những kết quả này liệu có kéo dài hay không.

“Như vậy, lần đầu tiên trẻ nói dối không phải là một dấu hiệu đáng báo động nhưng lại là một dịp đáng để vui mừng. Đó là thời điểm chúng ta có thể chỉ dạy trẻ”, ông chia sẻ “là thời điểm để bàn luận liệu nói dối là gì, sự thật là gì và ảnh hưởng của nó lên người khác ra sao.”

SUSAN PINKER

------

Trong quá trình phát triển cá nhân, trẻ thường học sử dụng nhiều sắc thái giao tiếp như nịnh bợ là cách để nhạo báng người khác, chỉ đạo các cuộc nói chuyện hướng tới những chủ đề dễ chịu hay chọn lọc thông tin để nói chuyện tạo ấn tượng. Nếu chúng nắm vững được những kĩ năng này, chúng sẽ biết định hình những tình huống xã hội để không mang lại những hậu quả đáng tiếc cho bản thân và cho những người xung quanh.”

Link gốc: http://www.wsj.com/articles/childrens-lies-are-a-sign-of-cognitive-progress-1452704960


Thứ Ba, 22 tháng 9, 2020

VÌ SAO CÓ NHỮNG NGƯỜI KHÔNG CÓ CHÍ TIẾN THỦ

 

NỖI SỢ THÀNH CÔNG: VÌ SAO CÓ NHỮNG NGƯỜI KHÔNG CÓ CHÍ TIẾN THỦ? (FEAR OF SUCCESS)

 Vì sao có những người lưỡng lự trước đề cử thăng chức? Vì sao có những người chỉ muốn tại vị yên ổn? Vì sao có những người không hề có chí tiến thủ? Có rất nhiều nguyên nhân, và một trong số đó được biết đến với tên gọi “nỗi sợ thành công” (Fear of Success).

Hiện tượng này được các chuyên gia quản lý, và giáo dục hết sức quan tâm vì nó ảnh hưởng lớn đến sự tự tin và thành công của mỗi người. Ngoài ra, nó còn dẫn đến việc mất tài năng trong các tổ chức và ảnh hưởng đến sự phát triển chung.

Nỗi sợ thành công bao gồm nỗi sợ thất bại, nỗi nghi ngờ về sự xứng đáng đạt được thành công, hay nỗi sợ đạt được những gì một người mong muốn. Theo Ti Caine, một nhà thôi miên và tư vấn về cuộc sống tại Sherman Oaks, California (Mỹ): “Sợ thành công là một vấn đề rất độc đáo và thường phát sinh khi chúng ta đang cố gắng tạo sự thay đổi và tiến về phía trước trong cuộc sống. Nỗi sợ này rất gần gũi vì những gì được suy diễn về tương lai có ảnh hưởng lớn đến chúng ta.”

Theo Caine, đa số mọi người không biết làm thế nào để đối phó với nỗi sợ thành công vì điều này thuộc về tương lai và không thể dự đoán. “Lối sống của chúng ta tập trung vào việc khắc phục quá khứ, giống như đang lái xe và nhìn chằm chằm vào kính chiếu hậu.”

Những lo ngại về thành công có xu hướng xoay quanh một số thay đổi mà thành công mang đến, trong đó có sự cô đơn. Manfred Kets de Vries, một nhà phân tâm học nghiên cứu về thuật lãnh đạo và động lực của con người, lập luận: Nỗi sợ thành công là nỗi sợ mất liên kết (loss of affiliation).

Các nhà lãnh đạo cấp cao có thể phát triển một chứng rối loạn thần kinh bởi sự cô độc và cách ly trong tổ chức họ dẫn dắt. Phụ nữ đặc biệt sợ thành công vì thành công có thể làm họ trở nên không thân thiện trong mắt người khác. Trong các trường hợp khác, con người sợ thành công vì họ sợ những người khác sẽ chơi xấu hoặc lợi dụng họ.

Nỗi sợ hãi thành công không chỉ tác động đến người lớn mà còn ảnh hưởng đến học sinh sinh viên. Các nhà tâm lý học phát hiện một số học sinh viên không thực sự bộc lộ khả năng vì sợ thành công. Phát hiện này có vẻ phi lý: Trẻ em nào chẳng muốn thể hiện tốt ở trường? Tuy nhiên, một số thanh thiếu niên có nỗi sợ về thành công vì họ không muốn trường lớp, gia đình đặt trách nhiệm, kì vọng lên họ hoặc đơn giản vì chỉ muốn được hòa đồng vớI bạn cùng trang lứa.

Một giả thuyết đặt ra là nỗi sợ thành công của trẻ em đến từ nỗi sợ thất bại. Một số nền văn hóa rất xem trọng việc thắng thua như Hàn Quốc hay Hoa Kì. Trên mạng truyền thông đại chúng và phim ảnh, những kẻ thua cuộc, những đứa trẻ mọt sách, những người không có ngoại hình đẹp, những vận động viên thua cuộc bị trêu trọc, bắt nạt và bị từ chối bởi những người xung quanh. Với cách nhìn về thất bại này, các nền văn hóa đã vô tình tạo ra một văn hóa sợ hãi và trốn tránh thất bại. Trong nhiều trường hợp, để đạt được thành công, trẻ cần phải đối diện với thử thách, và dám chấp nhận thất bại. Thế nhưng, vì những thông điệp văn hóa, trẻ không dám nỗ lực hết mình, chúng thà yên vị chứ không dám chấp nhận đánh cược với thất bại và thành công.

Thất bại không thể tránh khỏi và là một phần tất yếu của cuộc sống. Thất bại có thể trở thành động lực giúp con người vượt qua trở ngại trong những lần thử sức tiếp theo. Thất bại cho thấy ta đã làm sai những gì và cần sửa chữa thế nào để tránh lặp lại trong tương lai. Thất bại giúp ta hiểu được mối liên hệ giữa hành động và kết quả để khi thành công ta có thể tự hào nói rằng nó thuộc quyền sở hữu do nỗ lực của chính mình. Thất bại dạy kỹ năng sống quan trọng như quyết tâm, kiên nhẫn, quyết đoán và giải quyết hậu quả. Nó giúp ta lạc quan hơn sau những thất vọng thường gặp phải khi quyết tâm theo đuổi mục tiêu bản thân. Thất bại còn dạy ta sự khiêm tốn và đánh giá cao những cơ hội mà ta đang có.

Chính vì thế, tước đi quyền được thất bại là tước đi quyền được thành công. Rất nhiều người đã làm sai khi cho trẻ em biết rằng chúng không được thất bại. Trẻ sẽ nhận thức rằng thất bại là một mối đe dọa cá nhân và vị thế xã hội. Trẻ sẽ học cách tránh thất bại bằng cách không tham gia các hoạt động có thể dẫn đến thất bại, đưa ra nhiều lí do biện hộ khi thất bại và cho rằng lí do thất bại không liên quan tới bản thân.

Trẻ được dạy “không được thất bại” thường bị mắt kẹt trong tình trạng lấp lửng giữa thất bại và thành công thật sự, gọi là “khu vực an toàn” (comfortable zone). Những trẻ này trong học tập và thể thao thường có khả năng đạt thành tích cao nếu nỗ lực nhưng chúng thường quyết định từ bỏ. Những đứa trẻ này thường được cho là có cha mẹ kiểm soát, và chúng hay thực hiện những cuộc nổi loạn như một hành vi trả đũa, một phản ứng thụ động tích cực.

Nỗi sợ thành công là một vấn đề còn rất mới, ngay cả với các nước có nền tâm lý học phát triển mạnh mẻ. Để hiểu được nỗi sợ hãi thành công của một người chúng ta phải xem xét hiện tượng từ nhiều quan điểm khác nhau. Mỗi nạn nhân của chứng rối loạn chức năng thành công (success neurosis) là một trường hợp đặc biệt, và do đó cần được điều trị và chẩn đoán từ chính trường hợp của cá nhân đó. Không thể áp dụng công thức chung cho tất cả các trường hợp.

Chúng tôi có một lời khuyên cho các bạn đang trên đường tìm kiếm thành công. Để đạt được những gì mình mong muốn trong cuộc sống, ta cần có một tầm nhìn xa về tương lai, một tầm nhìn không chỉ để lạc quan hóa các trở ngại mà còn là động lực để không từ bỏ nửa chừng, để xác định mục tiêu và để giải quyết các vấn đề tiềm ẩn trên con đường tìm tới mơ ước. Chúc tất cả mọi người thành công!

Nguồn: Psychology Today