Thứ Năm, 2 tháng 1, 2020

MÂY ĐEN VÀ MẶT TRỜI KINH TẾ THẾ GIỚI




MÂY ĐEN VÀ MẶT TRỜI KINH TẾ THẾ GIỚI

Có một nhận định rằng mây đen đang bao phủ nền kinh tế toàn cầu còn mặt trời thì le lói ở một vài quốc gia.
Bài này tổng hợp thông tin tăng trưởng kinh tế toàn cầu để làm rõ mây đen bao phủ ở đâu và mặt trời chiếu sáng ở đâu, ở quốc gia nào?

MÂY ĐEN KHẮP 5 CHÂU
Nhận định mây đen bao phủ dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2019 suy giảm, bao gồm cả các nền kinh tế phát triển lẫn các nền kinh tế đang phát triển, ở tất cả 5 châu lục. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu tụt từ 3.6% (2018) xuống 3.0% (2019), trong đó các nước phát triển tụt từ 2.3% xuống 1.7%, các nước đang phát triển tụt từ 4.5% xuống 3.9%.

Nền kinh tế sụt giảm thê thảm nhất toàn cầu là Venezuela, năm 2019 suy giảm 35% (tăng trưởng -35%) so với năm 2018.
Ở châu Phi có thể kể đến 6 nền kinh tế tăng trưởng âm sau: Libya -19.1%, Zimbabwe -7.1%, Guinea xích đạo -4.6%, Sudan -2.6%, Angola -0.3%, Namibia -0.2%.
Ở Trung Đông có 6 nền kinh tế tăng trưởng thấp sau: Iran -9.5%, Syria 0%, Oman 0%, Saudi Arabia 0.2%, Lebanon 0.2% và Kuwait 0.6%.
Ở Nam Mỹ và Trung Mỹ có 6 nền kinh tế tăng trưởng thấp là: Argentina -3.1%, Nicaragua -5.0%, Puerto Rico -1.1%, Ecuador -0.5%, Barbados -0.1%, Mexico 0.4%.
Ở châu Âu có 6 nền kinh tế tăng trưởng thấp sau: Italy 0%, Đức 0.5%, Thuỵ Sĩ 0.8%, Iceland 0.8%, Thụy Điển 0.9% và Thổ Nhĩ Kỳ 0.2%
.
Đông Á và Đông Nam Á là là khu vực kinh tế năng động nhất, thế nhưng Macao tăng trưởng -1.3%, Hong Kong tăng trưởng có 0.3%, còn Singapore tăng trưởng 0.5% (mặc dù đầu năm dự báo kinh tế Singapore tăng trưởng 2.5%).
Trong số 194 nền kinh tế toàn cầu thì năm 2019 có 14 nền kinh tế tăng trưởng âm, 4 nền kinh tế tăng trưởng bằng 0, 63 nền kinh tế (chiếm 32.5%) tăng trưởng dưới 2%, hơn 2/3 tăng trưởng dưới 4%. Tăng trưởng thực tế năm 2019 ở hầu hết các quốc gia đều thấp hơn dự báo đầu năm 2019.

MẶT TRỜI CHIẾU Ở ĐÂU
Năm 2019 mặt trời chiếu ở 26 quốc gia, các quốc gia này có tăng trưởng từ 6% đến 9.4%. Tốp 15 quốc gia có tăng trưởng cao nhất thế giới theo thứ tự là Dominica (9.4%), Nam Sudan (7.9%), Rwanda (7.8%), Bangladesh (7.8%), Côte D’Ivoire (7.5%), Ghana (7.5%), Ethiopia (7.4%), Nepal (7.1%), Vietnam (7.02%), Cambodia (7.0%), Mauritania (6.6%), Gambia (6.5%), Mongolia (6.5%), Maldives (6.5%).
Trong 15 quốc gia tăng trưởng cao nhất thế giới có 3 quốc gia có dân số lớn là Bangladesh (161 triệu dân, tăng trưởng 7.8%), Việt Nam (96 triệu dân, tăng trưởng 7.02%) và Ethiopia (90 triệu dân, tăng trưởng 7.4%).

Mặt trời rực sáng nhất chính là Ethiopia, đất nước đông Phi với dân số 90 triệu người. Đã 16 năm liên tiếp (2004-2019), Ethiopia có tăng trưởng trên 7.4%, trong đó có 11 năm tăng trưởng trên 10%. Tuy nhiên hiện tại Ethiopia vẫn thuộc nhóm quốc gia nghèo nhất thế giới với GDP đầu người dưới 1.000$.
Mặt trời rực sáng thứ nhì chính là Bangladesh, đất nước Nam Á với dân số trên 161 triệu người. Đã 4 năm liên tiếp có tăng trưởng trên 7.1%, đặc biệt năm 2018 và 2019 có tăng trưởng 7.8% và 7.9%, luôn duy trì vị trí top 3 thế giới.

Ông bạn hàng xóm Cambodia cũng có tăng trưởng rất ấn tượng, 9 năm liên tiếp 2011-2019 có tăng trưởng trung bình 7.1%, trong đó năm 2018 tăng trưởng ở mức 7.5%.
Ông bạn Lào còn tăng trưởng ấn tượng hơn, 12 năm liên tiếp (2005-2017) Lào có tăng trưởng trên 7%, trong đó có 4 năm liên tiếp 2010-2013 tăng trưởng trên 8%. Ba năm gần đây tăng trưởng của Lào có sụt giảm nhưng vẫn ở mức 6.7%, 6.4% và 6.3%.

Ở ĐNA, ngoài Singapore tăng trưởng 0.5%, thì tăng trưởng của Brunei là 1.8%, của Thái Lan là 2.9%, của Malaysia là 4.5%, của Indonesia là 5.0%, của Philippines là 5.7% và của Myanmar là 6.2%. Như vậy tăng trưởng 7.02% của Việt Nam là con số rất đáng khích lệ.
Note: Báo cáo này làm ngày 20/12/2019 nên chưa cập nhật con số tăng trưởng năm 2019 7.02% của Việt Nam.

Theo facebook CaoBao Do


Xem thêm vào tỉ lệ tăng trưởng 10 năm từ năm 2010 – 2019 thì quan sát sẽ thú vị hơn.
 



Thứ Tư, 1 tháng 1, 2020

Đàn Bầu Linh hồn dân tộc Việt


Cây Đàn Bầu tựa chiếc “thiên cầm” hiên ngang, sừng sững giữa đất trời quê hương, tấu lên khúc nhạc hồn thiêng dân tộc.

Trong các nhạc cụ Việt Nam, Đàn Bầu hay “Độc huyền cầm” là một nhạc cụ thuần Việt nhất, đặc trưng nhất của dân tộc ta và cũng được coi là một trong số hiếm hoi những cây đàn độc nhất vô nhị trên thế giới bởi cấu trúc, âm thanh cũng như lối diễn tấu của nó không giống bất kỳ một loại nhạc cụ nào.

“Đàn Bầu” xuất hiện và biến hóa trong rất nhiều giai thoại tiên cổ, những truyền thuyết kỳ diệu được lưu truyền trong kho tàng văn hóa nhân gian.

Theo lời kể của cố GS. TS. Trần Văn Khê, nhà nghiên cứu trong một bài tham luận về đàn bầu tại Bulgary đã kể lại câu chuyện truyền thuyết gắn liền với sự ra đời của cây Đàn Bầu, được tóm lược như sau: “Cây Đàn Bầu trong câu chuyện dân gian là món quà của một bà Tiên ban cho nàng dâu hiếu thảo. Vì chiến tranh mà người con trai tên là Trương Viên phải ra trận, do loạn lạc họ đã cách xa nhau. Để tận hiếu với mẹ già và trọn tình nghĩa phu thê mà nàng dâu đã chịu móc mắt mình để tế hung thần trên đường đưa mẹ về quê lánh nạn. Cảm động trước tấm lòng hiếu thảo sắt son, Tiên trên trời bèn hiện ra và tặng nàng cây đàn một dây. Cây đàn ấy đã cứu sống hai mẹ con nàng qua những tháng ngày cực khổ và cuối cùng giúp gia đình họ được đoàn tụ”.

Từ truyền thuyết xa xưa của dân tộc đến những dấu tích lịch sử ghi lại đều có cùng điểm chung, đó là minh chứng cho sự gắn bó máu huyết của Đàn Bầu với xóm làng, người dân lao động Việt Nam bao đời nay. Đàn Bầu là cây đàn truyền thống của người Việt Nam, đã đồng hành với dân tộc ta qua biết bao thăng trầm và biến động lịch sử, ngấm nhuyễn vào từng âm điệu dân gian, vào từng lời ca “ru hời à ơi” của mẹ, bế bồng tâm hồn mỗi chúng ta hòa vào dòng suối linh thiêng của nguồn cội.

Âm sắc của Đàn Bầu vang lên vô cùng mượt mà, trong trẻo, sâu lắng và quyến rũ, rất gần với âm điệu, tiếng nói của con người nên dễ dàng chuyển tải được những tâm tư, tình cảm mà người dân lao động Việt Nam xưa kia muốn nói. Chính vì lẽ đó mà tiếng Đàn Bầu cất lên chính là tiếng lòng, vừa mang ý nghĩa nhân văn, vừa mang nỗi khổ “sinh – lão – bệnh – tử” thời cuộc phong kiến nhiều thị phi.



Đàn Bầu trong đời sống văn hóa Việt
Thời nhà Lý, Đàn Bầu được dùng để đệm cho người hát xẩm, làm thanh bồi cho các khúc ca dân dã của nam thanh nữ tú tuổi tâm tình, của người già khắc khổ trong chuyến hành hương cuộc đời gian nan, của trẻ em hồn nhiên với tuổi thơ đầy bươn chải. Lời ca tiếng nhạc ngân lên như chính khúc tơ lòng, thánh thót nhưng ai oán, thở than, đầy trầm tư cho kiếp dân quê đói nghèo lam lũ - những "Làn thảm" của chèo; "Bèo dạt mây trôi" của quan họ; "Nam ai" xứ Huế...; và vị ngọt ngào của những điệu hát ru, những lời tình tứ ý nhị "Hoa thơm bướm lượn"; lại cả khi vui nhộn yêu đời với "Trống cơm", "Con gà rừng"... Cuộc sống sinh hoạt của người làng quê xưa, luôn có sự tồn tại của cây đa, giếng nước, sân đình, những bụi tre già, cánh đồng lúa và đâu đó có cả những giọt đàn bầu.

Cây Đàn Bầu xưa tuy ít có mặt trong dàn nhạc Cung Đình, nhưng trong chốn dân gian vẫn là người bạn thân tình của thôn xóm và luôn có mặt trong đời sống thường nhật của người lao động Việt Nam. Đàn Bầu luôn tạo được cho mình sức sống mãnh liệt, phi thường và ngày càng khẳng định vị thế đặc biệt trong đời sống âm nhạc ngày nay cả trong nước cũng như toàn thế giới. Qua muôn trùng sóng gió lịch sử, Đàn Bầu vẫn tồn tại như một minh chứng cho sự sinh động của tinh hoa văn hóa dân tộc Việt Nam.

Mặc dù từ thời Lý, Đàn Bầu đã vô cùng phổ biến trong tầng lớp chúng dân nhưng đến năm 1892, Đàn Bầu mới được những người hát xẩm phía Bắc đưa vào xứ Huế để đệm đàn cho một số bộ phận vương quan. Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, Vua Thành Thái – một trong ba vị vua yêu nước thời Pháp thuộc - đã yêu tiếng đàn Bầu như hơi thở quê hương xứ An Nam, lúc đó Đàn Bầu mới được thay thế đàn tam trong ngũ tuyệt: tranh - tỳ - nhị - nguyệt - bầu, giữ vai trò là nhạc khí không thể thiếu - với chức năng hòa tấu - trong dàn nhạc cổ truyền dân tộc.

Trong đời sống âm nhạc hiện đại ngày nay, Đàn Bầu không chỉ thu mình vẻn vẹn trong những thể loại âm nhạc truyền thống mà còn vươn mình ra hòa nhập với âm nhạc đương đại khi kết hợp cùng với Dàn nhạc Giao hưởng để thể hiện rất thành công các tác phẩm thính phòng hay thậm chí ca khúc nhạc nhẹ trong và ngoài nước như: Bản Giao hưởng thơ của nhạc sĩ Nguyễn Xinh, Ouverture của nhạc sĩ Trọng Bằng, Sóng nhất nguyên của Nguyễn Thiện Đạo,  hay tác phẩm “Ave Maria” của Fr. Schubert,...

Đàn Bầu Việt Nam đặc sắc chính là do một sáng tạo, một phát hiện, có thể nói ở mức phát kiến của tổ tiên người Việt, ấy là cách gảy đàn tạo ra "âm bồi", thứ âm thanh kỳ lạ và mê hoặc không nhạc cụ nào trên đời hơn được. Nếu như cao độ của những nốt nhạc phát ra từ đàn Phương Tây như piano hay organ luôn xác định, thì âm thanh Đàn Bầu lại đọng lại giữa những khoảng cao độ đó và biến ảo, để rất gần với giọng nói con người. Nó là giọng hát của người đã được mượt hóa và ngọt hóa, để ngân lên các cung bậc sâu thẳm và phong phú vô cùng tận của tâm hồn người, nhưng lại ẩn đi phần ngữ nghĩa của lời ca, vì thế càng đa nghĩa và thâm sâu tuyệt đỉnh.

Chính từ ý nghĩa thâm diệu của Đàn Bầu cho nên nó không chỉ đóng vai trò trong âm nhạc mà còn là một hình tượng rất phổ biến trong những áng văn thơ và cảm hứng sáng tác của các thi sĩ, nhạc sĩ – những người nặng lòng với cây đàn tri kỷ này. Những câu thơ tình tứ, nỉ non như:

                       “Một dây căng giữa đất trời
                       Cần nghiêng nghiêng tựa dáng người vươn cao
                       Tiếng ngân ngân tận cõi nào
                       Dư âm rơi ngẩn ngơ vào tim ai.”
                                                              (Nguyễn Hải Phương)
                      
                       “Ôi! Đàn bầu quê tôi! Đàn bầu quê tôi!
                       Nửa bầu mà rót hoài không cạn
                       Một dây thôi – nói biết bao lời
                       Cung thương tha thiết chơi vơi
                       Cung trầm sâu lắng… rạng ngời tình quê.”
                                                                  (Hoàng Trang)

Cây Đàn Bầu thật tuyệt mỹ, tựa chiếc “thiên cầm” hiên ngang, sừng sững giữa đất trời quê hương, tấu lên khúc nhạc hồn thiêng dân tộc.

Rất nhiều những ca khúc phổ nhạc từ thơ đã ca ngợi cây Đàn Bầu như tinh huyết, như sự sống của văn hóa dân tộc. Những lời ca trong bài hát “Tiếng đàn bầu” của nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc, lời thơ Lữ Giang vô cùng mượt mà, thắm thiết: “…Tiếng đàn bầu của ta. Cung thanh là tiếng mẹ. Cung trầm là giọng cha. Ngân nga em vẫn hát. Tích tịch tình tình tang

Bên cạnh đó, Đàn Bầu Việt Nam đã vượt chiều dài không gian và làm say đắm, thổn thức trái tim của biết bao nghệ sĩ, nhà thơ nước ngoài bởi hình tượng quá đỗi nên thơ và độc đáo. Cây đàn đã được ca ngợi trong nhiều tác phẩm của các nhạc sĩ, thi sĩ người Pháp hay Bulgary.

Có thể nói, Đàn Bầu như là hiện thân của đất nước và dân tộc Việt Nam. “Giọt đàn bầu” mềm mại, thon thả như hình dáng đất nước; “Thanh âm đàn bầu” da diết, sâu lắng như hành trình bôn ba đầy thăng trầm của lịch sử dựng nước và giữ nước; “Âm điệu đàn bầu” như tiếng nói thâm trầm, giàu ngữ điệu của con người Việt Nam chân phương, đằm thắm. Từ một nhạc cụ dân gian cấu trúc đơn sơ, cây Đàn Bầu đã chiếm một vị trí độc tôn trong lĩnh vực nghệ thuật âm nhạc và trong tâm hồn mỗi người con Việt.

Đàn Bầu, đó là sự kết tinh thiêng liêng nhất của truyền thống dân tộc Việt Nam, nhân cách dân tộc Việt Nam và linh hồn dân tộc Việt Nam./.

Theo: Đặng Quỳnh Anh (hoinhacsi.vn)