Thứ Năm, 9 tháng 12, 2021

21 nghề nghiệp "đắt giá" trong tương lai

21 NGHỀ NGHIỆP "ĐẮT GIÁ" TRONG TƯƠNG LAI, TRIỂN VỌNG VÀ KHÓ BỊ THAY THẾ BỞI TRÍ TUỆ NHÂN TẠO

Khi tìm kiếm một công việc, hai mối quan tâm hàng đầu bạn thường cân nhắc đó là: mức lương và triển vọng trong tương lai.

Mới đây, Cục Thống kê Lao động Hoa Kỳ đã công bố dự báo (được thực hiện hai năm một lần) về sự phát triển của hàng trăm nghề nghiệp từ năm 2016 đến 2026.

Dưới đây là 21 công việc được dự báo mang lại mức lương cao nhất trong những thập kỉ tới. (sắp xếp thứ tự từ thấp đến cao)

 21. Nông dân, người chăn nuôi gia súc, nhà quản lý nông nghiệp

Công việc chính: Lên kế hoạch, quản lý, vận hành hoạt động của trang trại, nhà kính, hoạt động nuôi trồng thủy sản, vườn ươm, rừng cây hoặc các cơ sở nông nghiệp khác.

Số lượng vị trí cần tuyển năm 2026: 68.700.

Thu nhập trung bình năm 2016: 66.360 USD.

Yêu cầu: Bằng tốt nghiệp trung học hoặc tương đương.

20. Nhà phân tích hệ thống máy tính

Công việc chính: phân tích các vấn đề xử lý dữ liệu để phát triển và cải tiến hệ thống máy tính.

Số lượng vị trí cần tuyển năm 2026: 53.000.

Thu nhập trung bình hàng năm (2016): 87.220 USD

Yêu cầu: Bằng cử nhân.

19. Đại diện bán hàng

Công việc chính: Bán hàng cho doanh nghiệp.

Số lượng vị trí cần tuyển năm 2026: 81.100.

Thu nhập trung bình hàng năm (2016): 57.140 USD

Yêu cầu: Bằng tốt nghiệp trung học hoặc tương đương.

18. Lái xe tải hạng nặng và máy kéo

Công việc chính: Chở hàng hóa.

Số lượng vị trí cần tuyển năm 2026: 113.800.

Thu nhập trung bình hàng năm (2016): 41.340 USD.

Yêu cầu: Bằng lái xe ô tô.

17. Giám sát công trường

Công việc chính: Giám sát và điều phối các hoạt động tại công trường.

Số lượng vị trí cần tuyển năm 2026: 76.300.

Thu nhập trung bình hàng năm (2016): 62.980 USD.

Yêu cầu: Bằng tốt nghiệp trung học hoặc tương đương.

16. Nhà phát triển hệ thống phần mềm

Công việc chính: Phát triển hệ điều hành, trình biên dịch, và phần mềm mạng.

Số lượng vị trí cần tuyển năm 2026: 46.100 .

Thu nhập trung bình hàng năm (2016): 106.860 USD.

Yêu cầu: Bằng cử nhân.

15. Nhà vật lý trị liệu

Công việc chính: Giúp đỡ bệnh nhân phục hồi sau bệnh tật và chấn thương.

Số lượng vị trí cần tuyển năm 2026: 60.000.

Thu nhập trung bình hàng năm (2016): 85.400 USD.

Yêu cầu: Bằng giáo sư hoặc tiến sĩ.

14. Y tá

Công việc chính: Điều trị và chẩn đoán bệnh tật của bệnh nhân.

Số lượng vị trí cần tuyển năm 2026: 56.000.

Thu nhập trung bình hàng năm (2016): 100.910 USD.

Yêu cầu: Bằng thạc sĩ.

 13. Giáo viên tiểu học

Công việc chính: Dạy trẻ em những kĩ năng cơ bản.

Số lượng vị trí cần tuyển năm 2026: 104.100.

Thu nhập trung bình hàng năm (2016): 55.800 USD

Yêu cầu: Bằng cử nhân.

12. Quản lý hệ thống thông tin và máy tính

Công việc chính: Lên kế hoạch, giám sát và điều phối các hệ thống máy tính.

Số lượng vị trí cần tuyển năm 2026: 43.800.

Thu nhập trung bình hàng năm (2016): 135.800 USD

Yêu cầu: Bằng cử nhân.

11. Giáo viên chuyên về sức khỏe

Công việc chính: Dạy các khóa học về sức khỏe, trong các lĩnh vực như nha khoa, công nghệ phòng thí nghiệm, dược phẩm, y tế công cộng, liệu pháp và thuốc thú y.

Số lượng vị trí cần tuyển năm 2026: 60.500.

Thu nhập trung bình hàng năm (2016): 99.360 USD.

Yêu cầu: Bằng tiến sĩ hoặc giáo sư.

10.Quản lý các dịch vụ sức khỏe và y tế

Công việc chính: Lập kế hoạch, chỉ đạo và điều phối các dịch vụ sức khỏe.

Số lượng vị trí cần tuyển năm 2026: 69.800.

Thu nhập trung bình hàng năm (2016): 96.540 USD.

Yêu cầu: Bằng cử nhân.

9. Nhà phân tích quản lý

Công việc chính: Tiến hành nghiên cứu và phát triển các thủ tục để giúp các tổ chức hoạt động hiệu quả hơn.

Số lượng vị trí cần tuyển năm 2026: 96.500.

Thu nhập trung bình hàng năm (2016): 81.330 USD.

Yêu cầu: Bằng cử nhân.

8. Nhà nghiên cứu thị trường và chuyên gia marketing

Công việc chính: Nghiên cứu điều kiện thị trường và lập kế hoạch marketing.

Số lượng vị trí cần tuyển năm 2026: 136.000.

Thu nhập trung bình hàng năm (2016): 62.560 USD

Yêu cầu: Bằng cử nhân.

7. Luật sư

Công việc chính: Đại diện cho khách hàng trong các trường hợp pháp lý.

Số lượng vị trí cần tuyển năm 2026: 74.800.

Thu nhập trung bình hàng năm (2016): 118.160 USD.

Yêu cầu: Bằng tiến sĩ hoặc giáo sư.

6. Kế toán và kiểm toán

Công việc chính: Kiểm tra, phân tích và diễn giải hồ sơ kế toán.

Số lượng vị trí cần tuyển năm 2026: 140.300.

Thu nhập trung bình hàng năm (2016): 68.150

Yêu cầu: Bằng cử nhân.

5. Bác sĩ chuyên khoa và bác sĩ phẫu thuật

Công việc chính: Điều trị cho bệnh nhân trong các lĩnh vực chuyên môn.

Số lượng vị trí cần tuyển năm 2026: 49.600.

Thu nhập trung bình hàng năm (2016): 206.920 USD.

Yêu cầu: Bằng tiến sĩ hoặc giáo sư.

4. Nhà quản lý tài chính

Công việc chính: Hướng dẫn các hoạt động tài chính trong các công ty, tổ chức.

Số lượng vị trí cần tuyển năm 2026: 108.400.

Thu nhập trung bình hàng năm (2016): 121.750 USD.

Yêu cầu: Bằng cử nhân.

3. Nhà quản lý vận hành

Công việc chính: Lập kế hoạch, chỉ đạo và điều phối sự vận hành của tổ chức.

Số lượng vị trí cần tuyển năm 2026: 205.900.

Thu nhập trung bình hàng năm (2016): 99.310.

Yêu cầu: Bằng cử nhân.

2. Nhà lập trình các ứng dụng phần mềm

Công việc chính: Nghiên cứu và phát triển các ứng dụng và chương trình máy tính.

Số lượng vị trí cần tuyển năm 2026: 253.400.

Thu nhập trung bình hàng năm (2016): 100.080 USD.

Yêu cầu: Bằng cử nhân.

1. Điều dưỡng

Công việc chính: Chăm sóc đặc biệt đối với sức khỏe bệnh nhân.

Số lượng vị trí cần tuyển năm 2026: 437.000.

Thu nhập trung bình hàng năm (2016): 68.450 USD .

Yêu cầu: Bằng cử nhân.

Theo Nhịp sống kinh tế/Business Insider

Thứ Tư, 8 tháng 12, 2021

100 lời khuyên lúc lâm chung của vị Thầy thuốc Trung y 112 tuổi

 

100 LỜI KHUYÊN LÚC LÂM CHUNG CỦA VỊ THẦY THUỐC TRUNG Y 112 TUỔI

1. Hãy nhớ kỹ: Ngủ là yếu tố quan trọng nhất của dưỡng sinh. Thời gian ngủ nên từ 21h đến 3h sáng. Vì thời gian này là mùa đông trong ngày, mùa đông chủ yếu là ẩn náu, mùa đông mà không ẩn náu thì mùa xuân, hạ sẽ không thể sinh trưởng, sang ngày hôm sau sẽ không có tinh thần.

2. Hết thảy các vị thuốc dùng để trị bệnh cho dù là Trung y hay là Tây y đều chỉ là trị phần ngọn, không trị tận gốc. Tại vì hết thảy bệnh tật đều bắt nguồn từ những nguyên nhân sai lầm mà sản sinh ra hậu quả sai lầm. Nguyên nhân sai lầm mà không trừ dứt, thì hậu quả sẽ không thể bỏ tận gốc.

Nguồn gốc căn bản của sức khỏe là tại tâm. Hết thảy pháp từ tâm sinh ra. Tâm tịnh thân sẽ tịnh. Vì thế khi bị bệnh rồi, không được hướng ngoại cầu, phải dựa vào hệ thống phục hồi của bản thân để chữa trị bệnh của chính mình. Kỳ thực con người và động vật là giống nhau, bệnh của động vật đều là tự dựa vào bản thân mà tự hồi phục, và con người cũng có khả năng đó.

3. Quan niệm đúng đắn có tác dụng giúp người bệnh tiêu trừ bệnh tật tốt hơn nhiều so với sử dụng biệt dược đắt đỏ và phẫu thuật. Có được quan niệm đúng đắn, bạn sẽ có quyết định đúng đắn, bạn sẽ có hành vi đúng đắn, và bạn sẽ có thể phòng ngừa rất nhiều bệnh tật phát sinh.

4. Trong giới sinh vật con người là linh thể có cấu tạo hoàn mỹ nhất, khi con người được sinh ra là đã có một cơ thể khỏe mạnh; sự điều chỉnh trạng thái khỏe mạnh của con người là dựa vào chính hệ thống điều tiết phục hồi của bản thân để hoàn thành, chứ không phải dựa vào nhân tố bên ngoài, các nhân tố bên ngoài chỉ có tác dụng phụ trợ.

5. Đại đa số hiện tượng bệnh tật của con người là hiện tượng biểu hiện khi cơ thể đang điều tiết, thanh lọc những thứ không tốt trong thân thể, là trạng thái biểu hiện ra khi cơ thể tự động điều tiết trở lại trạng thái cân bằng, vì thế chúng ta nên coi đó là hiện tượng sinh lý bình thường, chứ không nên coi đó là căn bệnh để tiêu diệt. Vì vậy khi con người bị bệnh, nhất định không nên có tâm thái oán trách và giận giữ, tâm lý phải ổn định, tâm định thì khí sẽ thuận, khí thuận thì máu sẽ thông, khi thuận huyết thông thì trăm bệnh đều sẽ tiêu tán. 

Trích 100 lời khuyên lúc lâm chung của vị Thầy thuốc Trung y 112 tuổi

Đã tìm thấy Con tàu Nô-ê ở Thổ Nhĩ Kỳ

 

CON TÀU NÔ-Ê ĐÃ TÌM THẤY VÀ CƠN ĐẠI HỒNG THỦY TRONG KINH THÁNH LÀ CÓ THẬT

Theo truyền thống Kitô giáo, chiếc thuyền Noah đã bị mắc kẹt trên núi Ararat. Đây là ngọn núi cao nhất trên lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ, mà đỉnh cao là tại 5137 mét độ cao so với mực nước biển. Nay con Tàu Nô ê được tìm thấy gần ngôi làng Thổ Nhĩ Kỳ Üzengili ở thôn Doğubeyazıt.

Vào ngày 20/6/1987, Thống đốc tỉnh Agri của Thổ Nhĩ Kỳ tuyên bố với thế giới rằng: Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ, các nhà nghiên cứu thuộc trường Đại học Ataturk, cơ quan khảo cổ Thổ Nhĩ Kỳ… đã công nhận khám phá của nhóm thám hiểm Ron Wyatt. Đây là kết quả của nhiều chục năm nghiên cứu.

Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đã công nhận vật thể hình chiếc tàu trên ngọn núi Ararat tại độ cao 2.000m so với mực nước biển ấy là con tàu của Nô-ê. Khu vực này trở thành công viên quốc gia, báu vật quốc gia của họ. Đây là một trong những phát hiện lịch sử học và khảo cổ học vĩ đại nhất, cho thấy Đại Hồng Thủy và con tàu Nô-ê là sự thật.

Gỗ của con tàu đã bị hóa thạch. Các chất hữu cơ đều đã bị thay thế bằng khoáng chất, chỉ còn lại hình thù và dấu vết của các thanh sườn tàu. Mắt người chỉ nhìn được vật thể nhờ ánh sáng phản chiếu từ nó. Để nhận ra những vật thể nằm bên dưới mặt đất, các nhà khoa học sử dụng sóng siêu âm xuyên qua mặt đất. Kỹ thuật này thường được dùng để xác định vị trí dầu mỏ và các khoáng chất khác. Thiết bị để làm việc này được gọi là Radar xuyên đất (máy GPR) Kết quả radar scan: kích thước chính xác như được mô tả của con tàu trong Kinh Thánh

Bên trong mẫu gỗ dán cực kỳ cổ xưa đã hóa thạch này, người ta tìm thấy dấu vết của những cây đinh sắt. Kiểm tra cho thấy phần keo dán rỉ ra từ các lớp gỗ dán. Bề ngoài của mẫu vật từng được phủ một lớp nhựa đường, cũng đã hóa thạch. Những cây đinh sắt bên trong mẫu gỗ dán cực kỳ cổ xưa đã hóa thạch. Cây đinh tán cắm ngập vào phần thân gỗ hóa thạch. Kết quả phân tích cho thấy nó được làm bằng một loại hợp kim, trong thành phần có chứa cả nhôm. Chứng tỏ thời đó nhân loại có công nghệ rất cao.

Cách con tàu vài cây số, người ta tìm thấy nhiều khối đá rất lớn, một số dựng đứng trong khi số khác nằm dài trên mặt đất. Những khối đá này có khối lượng lên đến cả tấn, và có lỗ xuyên qua thân mình. Các nhà nghiên cứu đã công nhận rằng chúng là những cái neo, còn những cái lỗ là để buộc dây thừng. Nói cách khác, đây chính là những tảng đá mỏ neo:

Đại Hồng Thủy và con tàu Nô ê: Một câu chuyện đẫm nước mắt của lịch sử, không phải của truyền thuyết?    

Đại hồng thủy là đại thảm họa khủng khiếp đã từng tới với loài người, được nhắc đến trong truyền thuyết của nhiều tôn giáo và nhiều dân tộc trên thế giới. Nó được miêu tả là một trận lụt cực lớn và là sự trừng phạt của Thiên Chúa do sự suy đồi đạo đức, thoái hóa biến chất của loài người. Duy nhất Nô-ê nghe theo lời chỉ dạy của Thần làm chiếc tàu và sống sót.

Toàn bộ trái đất khi ấy đã được che phủ bằng nước vài km chiều cao. Nước dâng lên cao hơn cả những đỉnh núi cao nhất, vào ngày 17 tháng 2, mưa 40 ngày đêm và nước dâng lên liên tục trong 157 ngày.

Trước đó, vì muốn lưu lại con người và giống vật để phát triển một nhân loại mới sau thảm họa, Thần đã phán truyền cho ông Nô-ê:

“Ngươi sẽ làm tàu thế này: chiều dài một trăm năm mươi thước, chiều rộng hai mươi lăm thước, chiều cao mười lăm thước. Ngươi sẽ làm một cái mui che tàu, và đặt mui cách phía trên tàu nửa thước. Cửa tàu, ngươi sẽ đặt ở bên hông; ngươi sẽ làm tầng dưới, tầng giữa rồi tầng trên.” (Sáng Thế 6:15-16).

Ngoài ra, Thần cũng hướng dẫn ông Nô-ê cách thức để sinh tồn và bảo tồn giống động thực vật trong tàu: “Trong mọi sinh vật, mọi xác phàm, ngươi sẽ đưa vào tàu mỗi loại một đôi, để giữ cho chúng sống với ngươi; phải có một con đực và một con cái. Trong mỗi loại chim, mỗi loại gia súc, mỗi loại vật bò dưới đất, mỗi loại một đôi sẽ đến với ngươi, để ngươi giữ cho chúng sống. Phần ngươi, hãy lấy mọi thứ ăn được và tích trữ cho mình; đó sẽ là lương thực của ngươi và của chúng.” (Sáng thế 6:19-21).

Sau trận lụt kinh hoàng, nước rút dần khỏi mặt đất thì ông Nô-ê thả một con quạ bay ra khỏi tàu xem tình hình bên ngoài. Lần thứ nhất, con quạ không tìm được chỗ đậu chân vì nước chưa rút, nên nó bay về lại tàu. Bảy ngày sau, con bồ câu được thả ra lần nữa, và lần này nó bay trở về, trên mỏ ngậm cành lá ô liu tươi. Ông Nô-ê biết là nước đã giảm xuống, mặt đất đã trở lại.

Sau đại hồng thủy, chỉ có gia đình Nô-ê còn sống sót cùng các loài vật mỗi giống một cặp đôi, trên con thuyền Nô-ê.

Những nghiên cứu mới đây tiếp tục khẳng định Đại Hồng Thủy và con tàu Nô-ê

Đầu năm 2006, giáo sư Porcher Taylor cũng đã thông báo rằng sau khi nghiên cứu sâu rộng trong nhiều năm nhờ sự giúp đỡ của các hình ảnh vệ tinh, các kích thước của vật thể con tàu tại hiện trường cũng như mọi đặc điểm của nó tương ứng một cách hoàn hảo với con thuyền được mô tả trong Kinh Thánh.

Sự trùng hợp kỳ lạ: Vì sao những câu chuyện lịch sử của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia trên thế giới đều kể lại câu chuyện về Đại Hồng Thủy và con tàu Nô- ê? 

Các “huyền thoại” Kinh Thánh của Đại Hồng Thủy đã đồng thời được đề cập trong các tài liệu lưu trữ của các dân tộc khác nhau, bao gồm cả người Hindu, người Sumer, người Hy Lạp, các Acadians, người Trung Quốc, các Mapuches, các Mayas, người Aztec và người dân trên đảo Phục Sinh.

Trong tất cả những câu chuyện này, các chi tiết giống nhau một cách đáng ngạc nhiên. Đều là đã có cảnh báo từ các Thần về việc phải xây dựng một chiếc tàu, để có thể sống sót qua cơn Đại Hồng Thủy và để phục hồi sau đó sự sống trên hành tinh. Nhưng loài người đa phần cười không tin. Duy nhất chỉ có Nô-ê tin nghe và làm theo lời dặn của Thần.

Sự chuẩn xác tuyệt đối giữa các dữ liệu lịch sử và phát hiện của các nhà khảo cổ

Sử thi Gilgamesh (niên đại ít nhất 2660 năm trước) có ghi rằng đỉnh núi Nisir là nơi an nghỉ của con tàu huyền thoại: Tên gọi hiện nay là núi Nasar.

Cổ thư Houd Sura 11:44 (thuộc bộ sách Koran) ghi: “Con tàu đến an nghỉ trên ngọn Al-Judi, và nghe thấy một giọng nói: “Những kẻ xấu ác đều đã chết”: Thực tế hoàn toàn chính xác. Ngọn Al-Judi chính là nơi ban đầu con tàu nằm, trước khi bị dòng bùn cổ cuốn trôi xuống vị trí hiện nay.

Cổ thư Genesis 8:4-5 (thuộc Kinh Thánh) ghi: “Và con tàu yên nghỉ vào tháng thứ 7, ngày 17 tháng ấy, trên dãy núi Ararat. Và nước rút liên tục cho đến tháng thứ 10: vào tháng thứ 10, ngày đầu tiên tháng ấy, [con tàu] được trông thấy trên đỉnh của các ngọn núi ấy”: dữ liệu hoàn toàn chính xác.

Biên niên sử Ashurnasurpal II của Assyria (833-859 trước công nguyên) nói con tàu nằm lại ở phía nam của dòng sông ZabHoàn toàn chính xác.

Cuốn Theophilus của Antioch (115-185) nói rằng vào thời của ông người ta có thể trông thấy được con tàu trong những ngọn núi của người ArabHoàn toàn chính xác

Vậy là, liên tục có những khám phá mới về điều kỳ diệu tưởng chừng như không có. Những khám phá mới của con người dường như liên tục mở ra những chân trời quá khứ mà trước đây người ta vốn không nghĩ tới, không tin.

Dành một chút suy ngẫm để tự thấy mình nhỏ bé thế nào trước vũ trụ mênh mông và bao la, năng lực của con người vẫn qúa ư nhỏ bé. Hãy tôn trọng thiên nhiên đất trời. Chúng ta vốn là ai và có thể thực sự làm được điều gì, trên thực tế vẫn mãi là một ẩn số lớn của nhân loại.

‘NOAH’S ARK trên núi Ararat’ (1570) của họa sĩ người Flemish Simon de Myle. (ảnh: Wikimedia Commons) 

Đây chính là kết quả của nhiều chục năm nghiên cứu, con thuyền Noah chính xác như mô tả trong Kinh Thánh đã được tìm thấy

Theo https://tinconggiao.net/blog/con-tau-no-e-da-tim-thay-va-con-dai-hong-thuy-trong-kinh-thanh-la-co-that.html/

Thứ Ba, 7 tháng 12, 2021

Câu chuyện ly kì về khởi đầu của đế chế Hilton


 CÂU CHUYỆN LY KÌ VỀ KHỞI ĐẦU CỦA ĐẾ CHẾ HILTON

Đêm đó đã rất khuya, một đôi vợ chồng cao tuổi tìm đến một khách sạn ở khu du lịch hỏi thuê phòng. Người lễ tân, một thanh niên trẻ nhã nhặn đáp: “Xin lỗi, khách sạn chúng tôi đã kín khách, không còn chỗ nào cả”. Song, khi thấy bộ dạng mệt mỏi và thất vọng của 2 vị khách, người lễ tân lại nói: “Tuy nhiên, để tôi nghĩ cách xem sao…”
Anh lễ tân đương nhiên không muốn họ tiếp tục phải đi gõ cửa từng khách sạn mà xem ra cũng đã kín đặc người trong thị trấn, rồi cuối cùng phải ngồi vật vạ đâu đó bên lề đường suốt cả đêm. Vậy nên, anh dẫn hai vị khách ấy đến một gian phòng nhỏ nhưng ngăn nắp và sạch sẽ: “Đây không phải gian phòng tốt, nhưng lúc này tôi chỉ có thể làm được đến vậy”.

Ngày hôm sau, khi hai vị khách đến thanh toán, người lễ tân từ chối: “Không cần, vì đó chỉ là phòng nghỉ của tôi, cho ông bà mượn tạm qua đêm. Chúc ông bà lên đường may mắn”. Hóa ra, cả đêm hôm đó người lễ tân đã không ngủ mà ngồi làm việc trong quầy. Hai vị khách vô cùng cảm động. Khi họ đã đi khỏi, anh tiếp tục bận rộn với công việc của mình và quên hẳn chuyện đó.
Không ngờ một ngày kia, anh nhận được một tấm vé máy bay cùng thư mời đến New York làm việc. Hóa ra hai vợ chồng già ấy thuộc hàng tỷ phú, sau khi quay về họ quyết định mua hẳn một khách sạn sang trọng để kinh doanh và mời người lễ tân tốt bụng đến làm quản lý với niềm tin chắc chắn anh sẽ làm rất tốt công việc này.

Đó là câu chuyện truyền kỳ về người giám đốc đầu tiên của chuỗi khách sạn hàng đầu thế giới Hilton. Nó nhắc nhở chúng ta rằng, nếu biết yêu thương đồng loại, nếu con người đối đãi với nhau bằng chân tình, bất cứ việc gì cũng có thể “nghĩ cách xem sao…” Đây chính là câu chuyện về khách sạn 5 sao Hilton cùng vị quản lý đầu tiên tại nơi này.

Trong suốt một thế kỷ vừa qua, cái tên Hilton đã trở thành một thương hiệu toàn cầu mang dấu ấn đậm nét trong ngành dịch vụ khách sạn. Từ một khách sạn nhỏ, ngày nay Hilton đã trở thành một tổ hợp lên tới hơn 5.700 khách sạn và 17 thương hiệu ở 113 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Hãy sống với tâm chân thật nơi chính mình


 HÃY SỐNG VỚI TÂM CHÂN THẬT NƠI CHÍNH MÌNH

Tâm không bao giờ xa rời mình nhưng vì chúng ta chỉ lo sống được với tâm chân thật nơi chính mình. chạy theo những vọng tưởng điên đảo hay cái dụng của tâm, từ đó sinh ra phiền não. Chính nhờ có tâm nên mới nhìn thấy, nghe, ngửi, nếm... rồi khởi lên phân biệt chấp trước người này đẹp, người kia xấu, bài hát này hay, bài thơ kia dở,… Từ đó tiếp tục sản sinh ra vô số những vọng tưởng điên đảo thương, ghét, vui, buồn… Như vậy, điên đảo bắt nguồn từ tư tưởng, nếu không có tư tưởng thì không có điên đảo và tu thiền cốt để nhận rõ bản chất thật của điên đảo và chấm dứt nó.

Sơ tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông dạy: “Các nhân giả! Ngày tháng dễ trôi qua, mạng người không chờ đợi, Hãy tập buông bỏ, dẹp hết mọi vọng tưởng lăng xăng và nhận ra bản tâm thanh tịnh vốn sẵn có nơi chính mình để thấy Đức Phật luôn hiện hữu nơi mỗi chúng ta

Hãy sống với tâm chân thật nơi chính mình