Phần lớn sữa chúng
ta uống, phô mai chúng ta ăn và những ly kem chúng ta nhấm nháp ngày nay đến từ
những con bò sữa giống Holstein hiện đại. Năng suất cho sữa của loài bò này đã
được con người để ý đến từ ít nhất 100 năm trước.
.
Nhưng chọn được
giống bò năng suất nhất vẫn chưa hề khiến chúng ta hài lòng. Suốt 7 thập kỷ,
con người đã liên tục nghĩ ra những phương pháp để thúc đẩy sản lượng sữa của
Holstein.
.
Vào năm 1950, một
con bò chỉ sản xuất được khoảng 2.332 lít sữa mỗi năm. Ngày nay, một con
Holstein trung bình đã đạt năng suất gấp 4 lần, 10.120 lít. Năm 2017, một con
bò có tên Selz-Pralle Aftershock 3918 đã đạt kỷ lục cho sữa, với 34.395 lít/năm
tương đương 94 lít mỗi ngày.
Có một điều gì đó
đang diễn ra khiến vài năm trở lại đây, tin tức đang đi theo chiều hướng ngược
lại: nói rằng con người đang dần từ bỏ sữa.
Tháng 11 năm 2018,
tờ The Guardian đã đăng tải một câu chuyện có tiêu đề “Làm thế nào tình yêu
đối với sữa của chúng ta phai nhạt”. Họ mô tả sự gia tăng nhanh chóng của
các công ty bán sữa yến mạch và sữa hạt, và cho rằng sữa động vật truyền thống
đang phải đối mặt với một trận chiến lớn.
----
8 tác hại của Sữa bò
Sữa tốt hay không? Phải nói ngay đây là 1 vấn đề gây tranh cãi trên
thế giới, vì đơn giản sữa có cả 2 mặt và bạn phải tự quyết dùng hay không, và
nếu chọn dùng thì thứ tự thế nào (nếu thích sữa thì chỉ có sữa chua không đường
dùng vừa phải là còn có lợi). Mặt tốt của sữa (phần lớn chỉ đúng với sữa sổng
raw milk chưa bị thanh tiệt trùng làm thay đổi cấu trúc phân tử) thì các nhà
sản xuất và quảng cáo đã nói đầy trên TV làm bà con ta ngày càng thâm thủng túi
tiền, còn mặt trái thì đáng tiếc chẳng có ai trả tiền cho các nhà khoa học
quảng cáo vào giờ vàng TV.
Để rộng đường cân nhắc, bà con ta tham khảo tài liệu dưới đây của
Ủy ban Trách nhiệm Y khoa Hoa Kỳ về mặt trái của sữa, để chí ít đừng tin sữa là
1 thức ăn hoàn hảo như được quảng cáo mà cho con uống sữa thay nước hay nhịn
rau trái tươi để uống sữa mà rước bệnh vào thân.
1. LOÃNG XƯƠNG
Sữa được chào bán để ngăn ngừa loãng xương, nhưng các nghiên cứu
lâm sàng lại cho thấy khác. Công trình nghiên cứu Sức khỏe trên các Y tá của ĐH
Havard (1)(the Harvard Nurses' Health Study) theo dõi hơn 75.000 phụ nữ trong
suốt 12 năm cho thấy việc tăng tiêu thụ sữa không có hiệu quả bảo vệ đối với
nguy cơ gẫy xương. Trên thực tế, việc tăng nạp canxi từ các sản phẩm sữa liên
quan đến nguy cơ gẫy xương cao hơn. Một nghiên cứu của Australia(2) cũng cho
kết quả như vậy. Thêm vào đó, các nghiên cứu khác(3,4) cũng không tìm thấy tác
dụng bảo vệ xương từ canxi trong sữa. Bạn có thể tự giảm nguy cơ loãng xương
cho mình bằng cách giảm ăn muối và đạm động vật(5-7), tăng ăn rau và trái cây(8),
tập thể dục(9), và đảm bảo nạp đủ canxi từ các thức ăn thực vật như các lọai
rau lá màu xanh và đậu hạt, cũng như các sản phẩm tăng cường canxi như ngũ cỗc
ăn sáng và nước trái cây.
2. BỆNH TIM MẠCH
Các sản phẩm từ sữa - bao gồm phomai, kem, sữa, bơ và sữa chua -
cung cấp một lượng đáng kể cholesterol và chất béo trong bữa ăn của bạn(10).
Một chế độ ăn nhiều chất béo và chất béo bão hòa có thể làm tăng nguy cơ gây ra
một số bệnh mãn tính trong đó có bệnh tim mạch. Một chế độ ăn chay ít chất béo
loại bỏ các thực phẩm từ sữa, kết hợp với tập thể dục, bỏ thuốc lá, và kiểm
sóat sự căng thẳng stress, không những có thể ngăn ngừa bệnh tim mà thậm chí
còn có thể đảo ngược nó(11). Các sản phẩm sữa không béo cũng có trên thị trường
nhưng chúng lại gây ra những nguy cơ sức khỏe khác được lưu ý dưới đây.
3. UNG THƯ
Một số lọai ung thư, như ung thư buồng trứng, có liên quan đến việc
tiêu thụ các sản phẩm từ sữa. Đường lactose trong sữa khi đi vào cơ thể được
phân tách thành một lọai đường khác là galactose. Đến lượt mình, đường
galactose lại được các men enzyme phân tách tiếp. Theo một nghiên cứu của Tiến
sĩ Daniel Cramer và các đồng nghiệp tại ĐH Y Havard(12), khi ta tiêu thụ nhiều
các sản phẩm từ sữa vượt quá khả năng phân tách galactose của các enzyme, nó có
thể tích lũy lại trong máu và ảnh hưởng đến buồng trứng của phụ nữ. Một số phụ
nữ có lượng enzyme này đặc biệt thấp, và khi họ tiêu thụ thường xuyên các sản
phẩm từ sữa, nguy cơ bị ung thư buồng trứng của họ có thể cao gấp (3) lần so
với các phụ nữ khác.
Ung thư vú và tuyến tiền liệt cũng có liên quan đến việc tiêu thụ
các sản phẩm từ sữa, được cho là ít nhất có liên quan một phần đến việc làm
tăng một hợp chất có tên là IGF-I13-15. Chất IGF-I được tìm thấy trong sữa bò
và đã được phát hiện với liều lượng tăng lên trong máu của những người thường
xuyên tiêu thụ các sản phẩm từ sữa. Trong sữa bò còn có các dưỡng chất làm tăng
lượng IGF-I. Một nghiên cứu gần đây cho thấy những nam giới có lượng IGF-I cao
nhất có nguy cơ mắc ung thư tiền liệt tuyến cao hơn gấp 4 lần so với những
người có lượng IGF-I thấp nhất(14).
4. TIỂU ĐƯỜNG
Các chứng bệnh tiểu đường phụ thuộc insulin (tiểu đường típ 1 hay
tiểu đường ở người trẻ) có liên quan đến việc tiêu thụ các sản phẩm từ sữa. Các
nghiên cứu bệnh dịch học ở nhiều nước cho thấy một mối tương quan mạnh mẽ giữa
việc tiêu thụ các sản phẩm từ sữa với các trường hợp mắc tiểu đường phụ thuộc
insulin(17,18). Năm 199218 các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng một lọai
protein trong sữa kích họat một phản ứng tự miễn trong cơ thể, điều được cho là
tác nhân phá hủy các tế bào sản sinh insulin của tuyến tụy.
5. KHÔNG DUNG NẠP ĐƯỜNG LACTOSE
Chứng không dung nạp Lactose phổ biến ở một số chủng tộc và ảnh
hưởng đến khoảng 95% người Mỹ gốc châu Á, 74% người Mỹ bản xứ, 70% người Mỹ gốc
Phi, 53% người Mỹ gốc Mêhicô và 15% người da trắng Caucasian(19). Các triệu
chứng bao gồm rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy và đầy bụng là do những người này
không có các loại enzyme tiêu hóa đường lactose trong sữa. Hơn nữa, bên cạnh
các triệu chứng không mong muốn này, những người uống sữa cũng tự đặt mình
trước nguy cơ mắc các bệnh tật mãn tính khác.
6. NGỘ ĐỘC VITAMIN D
Việc tiêu thụ các sản phẩm từ sữa có thể không cung cấp một nguồn
vitamin D ổn định và đáng tin cậy trong chế độ ăn. Nghiên cứu các mẫu sữa được
chọn mẫu cho thấy có sự khác biệt đáng kể về lượng vitamin D, một số mẫu sữa
chứa đến 500 lần lượng ghi trên nhãn trong khi một số mẫu khác lại có rất ít
hoặc không hề có vitamin D(20,21). Quá nhiều vitamin D có thể gây ngộ độc và có
thể dẫn đến có quá nhiều canxi trong máu và nước tiểu, làm tăng hấp thụ nhôm
trong cơ thể và gây lắng đọng canxi trong các mô mềm.
7. NHIỄM HÓA CHẤT
Các hócmôn tổng hợp như hócmôn tăng trưởng trên bò (rBGH) được sử
dụng phổ biến trên bò sữa để tăng sản lượng sữa(13). Do phải tiết ra một lượng
sữa lớn trái với tự nhiên, kết quả cuối cùng là bò bị bệnh viêm tuyến vú. Việc
chữa bệnh này cần dùng thuốc kháng sinh, và dư lượng kháng sinh và hócmôn này
đã được tìm thấy trong mẫu sữa và các sản phẩm từ sữa bò. Các thuốc trừ sâu và
dược phẩm khác cũng là những chất hay nhiễm trong các sản phẩm từ sữa.
8. CÁC LO NGẠI VỀ SỨC KHỎE ĐỐI VỚI TRẺ SƠ SINH VÀ TRẺ EM
Các chất đạm của sữa, chất đường của sữa, chất béo và chất béo bão
hòa trong các sản phẩm từ sữa có thể gây ra những nguy cơ sức khỏe cho trẻ em
và gây ra các bệnh mãn tính như béo phì, tiểu đường, và hình thành các mảng bám
xơ vữa động mạch có thể dẫn đến bệnh tim. Viện Nhi khoa Hoa Kỳ khuyến nghị
không cho trẻ dưới 1 tuổi uống sữa bò nguyên chất vì trẻ dùng nhiều sữa bò dễ
bị thiếu sắt(10). Các sản phẩm từ sữa bò có lượng sắt rất thấp. Nếu sữa bò trở
thành một phần chính trong chế độ ăn của ai, người đó rất dễ bị thiếu sắt. Đau
bụng cũng là một lo ngại khi dùng sữa bò. Cứ 5 em bé thì có 1 bé bị chứng đau
bụng. Các bác sĩ nhi khoa đã biết từ lâu rằng nguyên nhân phổ biến là do sữa
bò. Bây giờ chúng ta cũng đã biết, các bà mẹ đang cho con bú cũng dễ gây đau
bụng cho con nếu các bà mẹ này dùng sữa bò. Các kháng thể của bò có thể truyền
qua máu của mẹ đi vào sữa mẹ và truyền sang con(22).
Thêm vào đó, các bệnh dị ứng thức ăn cũng thường là do sử dụng sữa,
đặc biệt là ở trẻ em. Một nghiên cứu gần đây(23) cũng cho thấy sự liên quan
giữa tiêu thụ sữa bò với bệnh táo bón mãn tính ở trẻ. Các nhà nghiên cứu khuyến
cáo rằng tiêu thụ sữa làm đau vùng quanh hậu môn và đau dữ dội khi đi cầu dẫn
đến bệnh táo bón.
Sữa và các sản phẩm từ sữa là không cần thiết trong chế độ ăn uống,
và trên thực tế, có thể có hại cho sức khỏe trẻ em. Hãy theo một chế độ ăn lành
mạnh bao gồm hạt ngũ cốc, trái cây, rau, đậu hạt và các thực phẩm ngũ cốc ăn
sáng và nước trái cây được tăng cường dưỡng chất. Những thức ăn giàu dinh dưỡng
này có thể dễ dàng giúp bạn đáp ứng đủ lượng canxi, kali, riboflavin và vitamin
D cần thiết mà lại không có nguy cơ hại sức khỏe.
ỦY BAN TRÁCH NHIỆM Y KHOA HOA KỲ
PHYSICIANS COMMITTEE FOR RESPONSIBLE MEDICINE
Người dịch: Trần Lan Hương, AADP Certified Health Coach
---Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Feskanich D, Willet WC, Stampfer MJ, Colditz GA. Milk,
dietarycalcium, and bone fractures in women: a 12-year prospectivestudy. Am J
Public Health 1997;87:992-7.
2. Cumming RG, Klineberg RJ. Case-control study of risk factors
forhip fractures in the elderly. Am J Epidemiol 1994;139:493-505.
3. Huang Z, Himes JH, McGovern PG. Nutrition and subsequent hip
fracture risk among a national cohort of white women. Am J Epidemiol
1996;144:124-34.
4. Cummings SR, Nevitt MC, Browner WS, et al. Risk factors for hip
fracture in white women. N Engl J Med 1995;332:767-73.
5. Finn SC. The skeleton crew: is calcium enough? J Women’s Health
1998;7(1):31-6.
6. Nordin CBE. Calcium and osteoporosis. Nutrition
1997;3(7/8):664-86.
7. Reid DM, New SA. Nutritional influences on bone mass. Proceed
Nutr Soc 1997;56:977-87.
8. Tucker KL, Hannan MR, Chen H, Cupples LA, Wilson PWF, Kiel DP.
Potassium, magnesium, and fruit and vegetable intakes are associated with
greater bone mineral density in elderly men and women. Am J Clin Nutr
1999;69:727-36.
9. Prince R, Devine A, Dick I, et al. The effects of calcium
supplementation (milk powder or tablets) and exercise on bone mineral density
in postmenopausal women. J Bone Miner Res 1995;10:1068-75.
10. Pennington JAT. Bowes and Churches Food Values of Portions
Commonly Used, 17th ed. New York: Lippincott, 1998.
11. Ornish D, Brown SE, Scherwitz LW, Billings JH, Armstrong WT,
Ports TA. Can lifestyle changes reverse coronary heart disease? Lancet 1990;336:129-33.
12. Cramer DW, Harlow BL, Willet WC. Galactose consumption and
metabolism in relation to the risk of ovarian cancer. Lancet 1989;2:66-71.
13. Outwater JL, Nicholson A, Barnard N. Dairy products and breast
cancer: the IGF-1, estrogen, and bGH hypothesis. Medical Hypothesis
1997;48:453-61.
14. Chan JM, Stampfer MJ, Giovannucci E, et al. Plasma insulin-like
growth factor-1 and prostate cancer risk: a prospective study. Science
1998;279:563-5.
15. World Cancer Research Fund. Food, Nutrition, and the Prevention
of Cancer: A Global Perspective. American Institute of Cancer Research.
Washington, D.C.: 1997.
16. Cadogan J, Eastell R, Jones N, Barker ME. Milk intake and bone
mineral acquisition in adolescent girls: randomised, controlled intervention trial.
BMJ 1997;315:1255-60
17. Scott FW. Cow milk and insulin-dependent diabetes mellitus: is
there a relationship? Am J Clin Nutr 1990;51:489-91.
18. Karjalainen J, Martin JM, Knip M, et al. A bovine albumin
peptide as a possible trigger of insulin-dependent diabetes mellitus. N Engl J
Med 1992;327:302-7.
19. Bertron P, Barnard ND, Mills M. Racial bias in federal
nutrition policy, part I: the public health implications of variations in
lactase persistence. J Natl Med Assoc 1999;91:151-7.
20. Jacobus CH, Holick MF, Shao Q, et al. Hypervitaminosis D
associated with drinking milk. N Engl J Med 1992;326(18):1173-7.
21. Holick MF. Vitamin D and bone health. J Nutr
1996;126(4suppl):1159S-64S.
22. Clyne PS, Kulczycki A. Human breast milk contains bovine IgG.
Relationship to infant colic? Pediatrics 1991;87(4):439-44.
23. Iacono G, Cavataio F, Montalto G, et al. Intolerance of cow’s
milk and chronic constipation in children. N Engl J Med 1998;339(16):1100-4.