Thứ Sáu, 10 tháng 7, 2020

Hiến pháp Hoa Kỳ là bản Hiến pháp ít sửa đổi nhất trên thế giới.


Lịch sử của nước Mỹ là lịch sử của sự vươn lên không ngừng, từ một liên bang lỏng lẻo gồm 13 tiểu bang đang đứng trước nguy cơ tan rã và nội chiến, đã trở thành một nhà nước liên bang hùng mạnh nhất thế giới ngày nay.
Tất cả các sử gia đều cho rằng, một trong hai văn bản quan trọng nhất (ngoài bản Tuyên ngôn Độc lập - 1776) làm nền tảng tạo nên sự hùng mạnh của nước Mỹ, chính là bản Hiến pháp Mỹ (1787).
 Hiến pháp Hoa Kỳ là “độc nhất vô nhị” trong số các bản hiến pháp trên thế giới. mà nó còn được nhiều quốc gia khác lấy làm mô hình tham chiếu cho hiến pháp nước mình. (Ảnh: Getty)


Hiến pháp Hoa Kỳ là “độc nhất vô nhị” trong số các bản hiến pháp trên thế giới. Nó được coi là một bộ luật thực sự đặc biệt, không chỉ bởi là bản Hiến pháp lâu đời nhất (năm 1787) và ngắn nhất (với 4.400 từ) so với bất cứ bản hiến pháp nào trên thế giới, mà nó còn được nhiều quốc gia khác lấy làm mô hình tham chiếu cho hiến pháp nước mình.
Nhà Triết học chính trị Alexis de Tocqueville thế kỷ 19 cho rằng đó là bản “Hiến pháp liên bang hoàn hảo nhất từng tồn tại”. Cựu Thủ tướng Anh William Gladstone miêu tả Hiến pháp Mỹ là “tác phẩm tuyệt vời nhất từng sản sinh ra tại một thời điểm nhất định bởi trí óc và mục đích của con người”. Còn Sử gia George Billias coi Hiến pháp Mỹ là “món quà lớn nhất của đất nước này đối với tự do của con người”.
Không giống như nhiều hiến pháp khác, Hiến pháp Hoa Kỳ làm cho mọi điều hoàn toàn có thể sửa đổi được. Không có điều khoản nào được coi là vĩnh cửu. Bất kỳ quy tắc hiến pháp nào ở Hoa Kỳ chỉ có hiệu lực cho đến khi được bãi bỏ bởi quy tắc tiếp theo. Nhưng điều đặc biệt là, cho đến nay, nó lại là bản Hiến pháp ít sửa đổi nhất trên thế giới.
Thứ 6 ngày 25/5/1787, tại tòa nhà Hạ viện tiểu bang Pennsylvania trên đường Chestnut (thành phố Philadelphia) có một nhóm người miệt mài ghi chép và tranh luận trong bầu không khí nóng như hun đúc của mùa hè khắc nghiệt. Khi 55 người đàn ông được triệu tập tới Philadelphia vào mùa hè lịch sử năm ấy, nước Mỹ vừa trải qua một cuộc chiến đầy cam go với đế chế Anh.
Đất nước bị tàn phá tan hoang, và đang chập chững bước vào giai đoạn phục hồi từ đống đổ nát với một nền kinh tế “dị dạng” do việc tách khỏi mẫu quốc: Tiền giấy tràn ngập khắp nơi gây ra cuộc lạm phát tồi tệ, nhiều nông dân và chủ đất nhỏ vướng lao tù vì các khoản nợ nần..
..
Sau ba tháng hội thảo triền miên căng thẳng và đầy áp lực, 55 đại biểu rời Philadelphia trở về nhà trong tình trạng kiệt sức và với tâm trạng hoài nghi. Rất ít người trong số họ tin tưởng vào sự tồn tại lâu dài của bản Hiến pháp mà họ vừa soạn thảo. Thậm chí ngay cả Chủ tịch Hội nghị Liên bang khi ấy là Tướng George Washington cũng nghĩ rằng, bản Hiến pháp chỉ có thể tồn tại lâu nhất là... 20 năm.
.
Trong suốt 100 ngày tham dự Hội nghị Liên bang để soạn thảo Hiến pháp Hoa Kỳ, 55 đại biểu chỉ nghỉ có 10 ngày. Mỗi ngày họ thảo luận, tranh luận từ 8 giờ sáng đến 3 rưỡi chiều, làm việc liên tục 6 ngày trong tuần ròng rã suốt hơn 3 tháng trời, trong căn phòng ngột ngạt với cửa sổ đóng kín bất chấp cái nóng mùa hè chỉ nhằm đảm bảo... tính bí mật.
.
Một điều cần nhấn mạnh là những người tham gia soạn thảo Hiến pháp đều là những người giàu có. Họ dành toàn bộ tâm sức và cả tiền bạc để cống hiến cho đất nước. Họ không bị ràng buộc bởi mối bận tâm phải lo kiếm sống hằng ngày, cũng như rất khó có thể bị tiền bạc mua chuộc. Tất cả họ đều tự bỏ tiền túi di chuyển từ quê nhà tới Philadelphia tham dự Hội nghị, tự thuê nhà trọ và chi trả các chi phí trong suốt hơn ba tháng trời mà không một ai đòi hỏi bất kỳ một đồng công quỹ.
Thomas Jefferson - cha đẻ của bản Tuyên ngôn Độc lập khi ấy đang đảm nhiệm vị trí Công sứ Mỹ tại Pháp, từ Paris đã viết thư cho John Adams, khi đó đang là Công sứ Mỹ tại Anh rằng: “Đó thực sự là cuộc quần tụ của những người con của Thần thánh”.
Như trong thư gửi Chủ tịch Quốc hội Hợp bang, tướng George Washington đã viết: “...Bản hiến pháp, như chúng tôi có hiện nay, là kết quả của tình bằng hữu thân ái, của sự cần thiết phải phụ thuộc và nhượng bộ lẫn nhau do sự khác biệt quan điểm chính trị…”.


Nhiều sử gia Mỹ gọi thành công mà Hội nghị Lập hiến đã thực hiện được là “Điều kỳ diệu ở Philadelphia”. Ngày nay, bản Hiến pháp Mỹ cùng với bản Tuyên ngôn Độc lập đang được lưu giữ trang nghiêm và cẩn mật tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia Mỹ như là những tài sản quý báu nhất của người dân Mỹ.

Bản gốc của Hiến Pháp Hoa Kỳ, Tuyên ngôn Độc Lập và Tuyên ngôn Nhân quyền được trưng bày tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia, ở Thủ đô Washington D.C, Hoa Kỳ. (Ảnh: Getty)
 

Không ai trong số 55 đại biểu ấy đều là người hoàn hảo, Nhưng quan trọng hơn cả, 55 con người ấy đều đọc Kinh Thánh, và sự giáo dục mà họ tiếp thụ đều được bao bọc trong lời dạy của Đấng Thiên Chúa.

 
Hiến pháp Hoa Kỳ là “độc nhất vô nhị” trong số các bản hiến pháp trên thế giới. mà nó còn được nhiều quốc gia khác lấy làm mô hình tham chiếu cho hiến pháp nước mình. (Ảnh: Getty)

ST


* Khi Hiến pháp Mỹ được ký vào năm 1787 tại Philadelphia, đây là thành phố lớn nhất của nước Mỹ vào năm ấy với 40.000 dân (ngày nay là hơn 2 triệu người) và dân số toàn Hoa Kỳ lúc ấy là 4 triệu người (hiện nay khoảng 327 triệu người).


Thứ Năm, 9 tháng 7, 2020

Tại sao buôn chuyện lại có sức cám dỗ như vậy?


 Ai cũng biết là không nên nói xấu sau lưng người khác, nhưng tại sao chỉ chút cám dỗ nhỏ nhặt này nhưng chúng ta lại không thể vượt qua được?


Tất cả chúng ta đều đã từng một lần như vậy, lần này qua lần khác, đắm chìm trong thứ niềm vui tiêu khiển đầy tội lỗi là ngồi buôn chuyện. Người bạn của chúng ta đã kỹ lưỡng dặn dò: "Đừng nói điều này với bất cứ ai khác", nhưng chỉ vài giây sau đó, trái tim của chúng ta lại thổn thức vì nhận ra bản thân không thể kháng cự trước sức hút mãnh liệt của việc truyền thông tin này cho một người nào đó.

Buôn chuyện hay ngồi lê đôi mách là gì?
Buôn chuyện là việc chia sẻ những thông tin cá nhân hoặc riêng tư, nhạy cảm về một người không có mặt tại thời điểm đó. Những câu chuyện này thường tiêu cực và gây lúng túng cho người được nhắc đến.

Buôn chuyện có một số đặc điểm rất nổi bật. Đầu tiên, nó là hoạt động được thực hiện với người khác, chúng ta không thể tự thực hiện nó hay tự mường tượng trong đầu. Thứ hai, câu chuyện luôn xoay quanh về một người không hiện diện trong cuộc trò chuyện hay còn được hiểu là nói xấu sau lưng người khác. Thứ ba, không chỉ đưa ra sự thật hay tin đồn, mà chúng ta còn cố tình "thêm mắm thêm muối" về người đó.

Vậy tại sao chúng ta thích buôn chuyện?
Sự thèm khát của chúng ta đối với những tin đồn là không có hồi kết. Cho dù là với gia đình, bạn bè, tại nơi làm việc, những người nổi tiếng, hầu hết những mẫu chuyện luôn hàm chứa một hình thức "buôn dưa lê" nào đó.
Chúng ta thích nghe tin đồn nhiều như việc chúng ta muốn đi rêu rao nó vậy. Trên thực tế, một nghiên cứu cho thấy con người thật sự bị thu hút bởi những tin đồn, ngay cả khi biết nó là không đúng sự thật. Những thông tin được bắt đầu bằng những cụm từ yếu ớt như "hình như" hoặc "được cho là" chẳng đủ để ngăn chặn những định kiến và sự phỉ báng. Đó là vì chúng ta đánh giá con người dựa trên cảm xúc tự thân cho dù biết rằng những ý nghĩ đó đều dựa trên những bằng chứng không đáng tin cậy.

Buôn chuyện còn rất thú vị! Tụ họp lại và bàn tán về một ai đó có thể tạo ra sợi dây liên kết và cảm giác thân thuộc với mọi người, ngay cả với những người xa lạ. Hai người dù không quen biết nhau nhưng sẽ ngay lập tức cảm thấy gần gũi hơn khi họ chia sẻ điều gì đó có ý nghĩ hoặc hài hước về một người thứ ba. Đó được xem là sự xác nhận về việc họ có cùng chung thế giới quan. Những đánh giá của chúng ta về mọi thứ dường như được "sống lại" khi bắt mối được với những người tò mò và rảnh rỗi.

Nó cũng cho chúng ta cảm giác thông hiểu về đời tư của một người khác. Hơn thế nữa, những thông tin mà chúng ta có thường là những điều thầm kín, bí mật, một loại "trái cấm", vốn dĩ lúc nào cũng ly kỳ, kịch tính. Nó cũng mang lại cho chúng ta cảm giác thống khoái tựa như "đứng trên" người mà chúng ta bàn tán.

Buôn chuyện cho phép mọi người gián tiếp tham gia vào thế giới mà lẽ ra họ không được can dự, đôi khi nó mang đến sự ảo tưởng về quyền kiểm soát và sức ảnh hưởng đến thế giới đó. Điều này lý giải tại sao con người thường bán tán về những người giàu có, nổi tiếng và tập trung khai thác vào lối sống và cuộc sống cá nhân của những người này. Đó là lý do cho việc nhân viên thường buôn chuyện về sếp hoặc cấp trên của họ tại nơi làm việc. Nó giúp họ tận hưởng cảm giác ảo tưởng về sự kiểm soát tình hình công việc của bản thân.

Một nghiên cứu cho thấy trong một thí nghiệm, nhịp tim của những người tham gia tăng lên khi chứng kiến những hành vi cư xử tồi tệ, không công bằng, nhưng sau đó giảm đáng kể khi họ truyền thông tin này cho những người khác.
Khi chúng ta thấy ai đó cư xử một cách vô đạo đức, chúng ta trở nên bực bội. Buôn chuyện mang đến cho chúng ta sự thỏa mãn vì đã cảnh báo điều đó bạn bè.

Vậy buôn chuyện tốt hay xấu?
Buôn chuyện thường được đánh giá là tiêu cực, độc địa và phá hoại. Ở xã hội hiện tại, tham gia vào hành động trên chẳng khác gì việc nói xấu bạn đồng hành và làm xáo trộn sự cân bằng của xã hội. Tuy nhiên, thuật ngữ này lúc đầu mang một ý nghĩa khác, có nguồn gốc bắt đầu là từ "god-sibbs", đề cập đến cha mẹ đỡ đầu, ngụ ý là nhóm người đặc biệt gần gũi.

Một lý do tại sao buôn chuyện lại mang màu sắc tiêu cực như ngày nay là vì nó thường được sử dụng để nói xấu về một ai đó mà chúng ta không thích. Chúng ta không thể phân biệt giữa thông tin thật và thông tin bị xuyên tạc. Sẽ là cực kỳ không đúng khi nhìn người khác với ánh mắt đầy nghi ngờ, lẽ ra chúng ta nên dành thời gian, năng lượng và sự bình yên trong suy nghĩ để chắc rằng mình sẽ không bao giờ bị lợi dụng.

Buôn chuyện có thể trở nên không đẹp, gây mất lòng tin và khá là "đắng lòng" khi biết được kẻ mà chúng ta hay "hàn huyên" giờ lại đi nói xấu về chính chúng ta. Không khí nghi ngờ sẽ bủa vây và ngăn cản khả năng tiếp tục "mối lương duyên" này khi mà chúng ta không còn cảm thấy tin tưởng khi chia sẻ những điều bí mật.

Buôn chuyện có thể vui, nhưng nó tốt hay xấu còn tùy thuộc vào ý định của người đang thì thầm vào tai bạn!

theo ScienceABC

Lưu Đình Thức giữ trọn hôn ước, cưới cô gái mù làm vợ




Lưu Đình Thức vẫn giữ trọn hôn ước, cưới cô gái mù làm vợ. Người hiện đại ngày nay khi nghe câu chuyện này, thường cho rằng ông thật ngốc. Tuy nhiên, ai mới thực sự là ngốc đây?

Vào thời Bắc Tống có một vị nho sinh, tên gọi là Lưu Đình Thức, tự là Đức Chi, là người Tề Châu (nay thuộc Sơn Đông). Lưu Đình Thức xuất thân từ một gia đình nông dân, bên cạnh nhà là một gia đình bần hàn, trong nhà có một cô con gái có đính ước với ông, hôn ước đã định rất nhiều năm.

Về sau, Lưu Đình Thức đỗ tiến sỹ, làm quan, có danh có tiếng và tiền đồ sáng lạn. Thế nhưng người con gái ấy lại mắc bệnh nặng một thời gian dài và bị mù cả hai mắt. Gia đình cô gái là người làm nông, gia cảnh bần hàn, vì thế cũng không dám nhắc lại chuyện hôn nhân với nhà họ Lưu nữa.

Trong số các vị bằng hữu, có người khuyên Lưu Đình Thức: “Người con gái kia đã bị mù cả 2 mắt, ông nên vì tiền đồ của bản thân và tương lai của gia đình mà chọn người khác để kết hôn”.

Nhưng Lưu Đình Thức trả lời rằng: “Ta năm đó cùng cô ấy đính ước, đã hứa trao tấm lòng mình cho cô ấy rồi. Giờ đây nàng mắt đã bị mù, nhưng cái tâm của nàng vẫn còn nguyên tốt đẹp. Ta nếu làm trái tâm nguyện xưa, thì tâm ta đã điên đảo trở nên xấu xa rồi. Mỗi người sớm muộn đều sẽ về già, lúc vợ đã già nhan sắc héo tàn chúng ta cũng không thể thay thế một cô gái trẻ đẹp đúng chăng? Con người phải giữ được lòng thành tín, bản thân không thể thay lòng”.

Bởi vậy hai người họ kết hôn. Sau khi thành hôn, Lưu Đình Thức hết lòng chăm lo cho người vợ mù, hai vợ chồng chung sống hòa thuận qua ngày, rất mực thương yêu nhau, trước sau nuôi dạy được mấy đứa con.

Lúc ấy Tô Đông Pha đang là quan Thứ sử ở đó. Tô Đông Pha rất ngưỡng mộ và kính trọng nhân phẩm của ông. Tô Đông Pha biết chuyện ấy, đối với việc làm của Lưu Đình Thức rất cảm động nói: “Lưu Đình Thức thật sự là một người có tình cảm đằm thắm cao thượng!”.

Có thể người thời hiện đại ngày nay sẽ cảm thấy Lưu Đình Thức thật là ngốc, không hiểu vì sao ông ấy lại lựa chọn như vậy? Kỳ thực, nhận thức về hôn nhân của người xưa so với người hiện đại là không giống nhau.

Nho gia cho rằng đạo lý vợ chồng là khởi đầu của đối nhân xử thế, đạo lý vợ chồng càng có thể nói là gốc rễ của nhân luân. “Quân tử chi đạo, tạo đoan hồ phu phụ” – Đạo người quân tử khởi đầu từ vợ chồng. Người xưa cho rằng, hôn nhân gia đình là nền tảng của quốc gia. Nền tảng này vững chắc thì quốc gia và xã hội mới có thể ổn định, phồn vinh, hưng thịnh.

Tình trạng hôn nhân tùy tiện của người hiện đại ngày nay so với văn hóa truyền thống là khác biệt vô cùng. Văn hóa truyền thống cho rằng, hôn nhân không chỉ là tình cảm trong cuộc sống, mà còn là một loại trách nhiệm và sự tin cậy, ân nghĩa và đạo nghĩa hơn cả tình yêu.

Trong Kinh Thi có một câu thơ nổi tiếng rằng: “Chấp tử chi thủ, dữ tử giai lão”. Ý muốn nói rằng: Ta nắm tay nàng, Hẹn ước sẽ sống chung với nhau đến tuổi già. Hiện nay có không ít người trẻ tuổi rất thích trích dẫn lời thơ này, đặc biệt trong ngày hôn lễ còn có ước nguyện tốt đẹp như vậy.

Kỳ thực, câu thơ trước đó là “Tử sinh khiết thoát, dữ tử thành thuyết”. Ý rằng, chết sống hay xa cách, đã cùng nàng thành lời thề ước. Như vậy, hôn ước là có sức nặng lớn nhường nào! Đó là cả đời phó thác, cả đời hứa hẹn, cả đời trách nhiệm. Cho nên người xưa coi hôn nhân như đại sự chung thân, cần lạy trời đất, cần thiên địa làm chứng cho lời hứa của mình.

Ở xã hội Tây phương, người ta cũng coi hôn ước có sức nặng giống như vậy. Họ làm hôn lễ trong nhà thờ, thề trước Chúa: Vâng theo sự sắp đặt của Chúa, vô luận ở hoàn cảnh nào, đều phải yêu thương lẫn nhau, tận tâm với nhau, không rời không bỏ. Họ coi hôn nhân thật sự rất thần thánh, rất trang nghiêm.

Người hiện đại ngày nay trong hôn nhân chỉ là coi trọng cảm xúc cá nhân, “giải phóng tình dục”, “chủ nghĩa túng dục”…, quan chức còn nuôi tình nhân, hối lộ nhau tình ái, đầy rẫy khắp nơi. Trong xã hội, mọi người dần dần coi nhẹ trách nhiệm trong hôn nhân.

Tuy nhiên, làm một người bội tín thì đối phương cũng sẽ không giữ lời hứa với bạn; làm một người chỉ coi cảm xúc của mình đặt làm lợi ích hàng đầu, thì đối phương cũng sẽ chẳng đoái hoài đến cảm thụ của bạn.

Lưu Đình Thức cưới cô gái mù làm vợ, hết lòng giữ lời hẹn hôn ước, giữ trọn “hảo tâm” từ hai phía. Tấm lòng tốt đẹp này sẽ không phai nhạt theo năm tháng, mà chỉ có thể ngày càng dung hòa, càng ngày càng tâm đầu ý hợp. Hạnh phúc của họ không cần nói cũng biết, như vậy hai người họ chẳng phải là người thông minh nhất hay sao?

Lisa