Chủ Nhật, 15 tháng 3, 2020

Bậc thầy trong tình yêu hay khoa học của hạnh phúc đến trọn đời


Các nhà nghiên cứu thấy rằng sự coi thường là yếu tố hàng đầu phá vỡ các đôi vợ chồng.
Mỗi ngày trong tháng sáu, mùa cưới trong năm ở nước Mỹ, khoảng 13.000 cặp vợ chồng sẽ nói lời cam kết cho một cuộc hôn nhân đến trọn đời, một mối quan hệ đầy tình bạn, niềm vui và tình yêu sẽ theo họ đến tận ngày cuối cùng trên trái đất này.

Dĩ nhiên, ngoại trừ việc là nó không diễn ra như vậy với hầu hết mọi người. Đa số các cuộc hôn nhân thất bại, hoặc kết thúc bằng ly dị hay ly thân, hay biến thành mối quan hệ đầy cay đắng và khủng hoảng. Trong số những người kết hôn, chỉ có 3 trong số 10 người giữ được cuộc hôn nhân lành mạnh, hạnh phúc, như nhà tâm lý học Ty Tashiro chỉ ra trong cuốn Khoa học của Hạnh phúc đến Trọn đời (The Science of Happily Ever After)
Các nhà khoa học xã hội bắt đầu nghiên cứu hôn nhân bằng cách quan sát chúng lần đầu tiên trong những năm 70 để tìm giải pháp cho một cuộc khủng hoảng: Các cặp vợ chồng ly dị với tỷ lệ chưa từng có. Lo ngại về ảnh hưởng của những vụ ly hôn này lên con cái trong gia đình, các nhà tâm lý học quyết định tung lưới lên các đôi vợ chồng, lôi họ vào phòng thí nghiệm để quan sát và xác định xem thành phần của mối quan hệ lành mạnh, lâu bền là gì. Có phải mỗi gia đình bất hạnh đều bất hạnh theo cách riêng của họ như Tolstoy từng tuyên bố, hay những cuộc hôn nhân đau khổ đều có chung một yếu tố độc hại nào đó?
Nhà tâm lý học John Gottman trong bốn thập kỷ qua, ông đã nghiên cứu hàng ngàn cặp vợ chồng trong công cuộc tìm kiếm cái gì khiến các mối quan hệ thành công. Gottman và vợ ông Julie, hai chuyên gia nổi tiếng về hôn nhân này cùng nhau quản lý Học viện Gottman, nơi họ giúp các đôi vợ chồng xây dựng và duy trì mối quan hệ lành mạnh và yêu thương dựa trên cơ sở nghiên cứu khoa học.
John Gottman bắt đầu thu thập những phát hiện quan trọng nhất của ông vào năm 1986 khi ông thành lập “Phòng Thí nghiệm Tình yêu” với đồng nghiệp Robert Levenson tại trường Đại học Washington. Gottman và Levenson đưa các cặp mới cưới vào phòng thí nghiệm và quan sát họ tương tác với nhau. Từ dữ liệu thu thập được, Gottman chia các cặp vợ chồng thành hai nhóm chính: nhóm bậc thầy và nhóm sa lầy. Nhóm bậc thầy vẫn sống hạnh phúc với nhau sau sáu năm. Nhóm sa lầy hoặc đã chia tay, hoặc thường xuyên không hạnh phúc trong hôn nhân của họ.
Khi những nhà nghiên cứu thấy sự khác biệt rõ ràng giữa nhóm bậc thầy và nhóm sa lầy. Nhóm sa lầy trông có vẻ bình tĩnh trong cuộc phỏng vấn, nhưng các thông số sinh lý của họ, đo bởi những điện cực, kể một câu chuyện khác hẳn. Nhịp tim của họ nhanh, các tuyến mồ hôi hoạt động và lưu lượng máu chảy nhanh. Theo dõi hàng ngàn cặp vợ chồng theo thời gian, Gottman thấy rằng các thông số sinh lý của những cặp vợ chồng càng cao trong phòng thí nghiệm bao nhiêu thì mối quan hệ của họ xấu đi nhanh bấy nhiêu theo thời gian.
Nhưng các thông số sinh lý ấy thì có liên quan gì?
Nhóm sa lầy khi nói về những khía cạnh dễ chịu hay rất thông thường trong mối quan hệ, họ cũng vẫn chuẩn bị tấn công hay bị tấn công. Điều đó khiến nhịp tim của họ tăng cao và họ trở nên hung hăng hơn đối với nhau. Ví dụ, một cặp vợ chồng có thể nói về những chuyện xảy ra ngày hôm ấy với họ và anh chồng đang bị kích động có thể nói với vợ: “Sao em không nói về chuyện của mình đi? Thế có phải tốt hơn không?”
Ngược lại, nhóm bậc thầy bộc lộ sự kích thích thấp. Họ cảm thấy bình tĩnh và kết nối với nhau, và điều đó dẫn đến những hành vi ấm áp và yêu thương, ngay cả khi họ cãi lộn. Ở đây không phải là nhóm bậc thầy có cấu trúc sinh lý tốt hơn nhóm sa lầy, nó là họ đã tạo được bầu không khí tin cậy và gần gũi khiến cả hai cảm thấy thoải mái về mặt tình cảm, và điều đó thể hiện ra ngoài về mặt thể chất.
Gottman muốn biết làm thế nào nhóm bậc thầy tạo ra nền tảng của tình yêu và sự gần gũi đó, còn nhóm sa lầy thì phá hỏng nó. Trong một nghiên cứu tiếp theo vào năm 1990, ông thiết kế phòng thí nghiệm ở trường Đại học Washington giống như một nhà nghỉ đẹp. Ông mời 130 đôi mới cưới nghỉ một ngày ở đó và quan sát họ làm những thứ các cặp vợ chồng thường làm trong kỳ nghỉ: nấu ăn, dọn dẹp, nghe nhạc, ăn uống, trò chuyện, đi chơi. Và Gottman đạt được một khám phá quan trọng trong nghiên cứu này – khám phá đi vào tận gốc vấn đề tại sao một số mối quan hệ phát triển trong khi những mối quan hệ khác lụi tàn.
Trong sinh hoạt hàng ngày, một trong hai người sẽ phát tín hiệu yêu cầu kết nối, cái mà Gottman gọi là “đánh tiếng”. Ví dụ, có thể anh chồng là người đam mê chim và anh nhận thấy một con chim kim oanh bay qua sân. Anh ta có thể nói với vợ: “Xem con chim ngoài kia đẹp không kìa!” Anh ta không chỉ nhận xét về con chim ở đây; anh ta đang yêu cầu một phản ứng từ người vợ – một dấu hiệu của sự quan tâm hay hỗ trợ – hy vọng rằng hai người sẽ kết nối, dù chỉ là ngắn ngủi, về chuyện con chim.
Người vợ bây giờ có một lựa chọn. Cô có thể phản ứng bằng cách “quay lại” hoặc “quay đi” khỏi anh chồng, như cách Gottman nói. Mặc dù sự đánh tiếng về con chim có vẻ nhỏ nhặt và ngớ ngẩn, nó thực ra có thể tiết lộ rất nhiều về tình trạng sức khỏe của mối quan hệ. Người chồng nghĩ rằng con chim đủ quan trọng để đưa vào câu chuyện và vấn đề ở đây là liệu người vợ có nhận ra và tôn trọng điều đó không.
Những người quay lại với bạn đời của họ trong nghiên cứu này đáp ứng bằng cách tham gia cùng người đánh tiếng, biểu lộ sự quan tâm và ủng hộ. Những người không làm vậy – những người quay đi – không phản ứng hay chỉ phản ứng lấy lệ và tiếp tục những gì họ đang làm, như là xem TV hay đọc báo. Đôi khi họ còn đáp lại với thái độ thù địch công khai, như là nói, “Đừng có làm phiền tôi. Tôi đang đọc báo.”
Tương tác đánh tiếng này có ảnh hưởng sâu sắc đến hạnh phúc hôn nhân. Các cặp vợ chồng ly dị trước lần nghiên cứu tiếp sáu năm sau chỉ “quay lại” đối với những lần đánh tiếng với tỷ lệ 33%. Chỉ có 3 trong số 10 lần yêu cầu kết nối về tình cảm được đáp lại với sự gần gũi. Những cặp vợ chồng vẫn sống với nhau sau sáu năm “quay lại” đối với những lần đánh tiếng với tỷ lệ 87%. Chín trong số mười lần, họ đáp ứng nhu cầu tình cảm của người bạn đời.
* * * * * *
Có một thói quen của nhóm bậc thầy, “đó là: họ luôn quan sát, tìm kiếm trong môi trường xã hội những thứ mà họ có thể biểu lộ sự cảm kích và nói lời cảm ơn. Họ xây dựng nền tảng của sự tôn trọng và cảm kích này một cách rất có ý thức. Nhóm sa lầy quan sát, tìm kiếm trong môi trường xã hội những sai lầm của người bạn đời.”
“Nó không chỉ là quan sát môi trường,” Julie Gottman xen vào. “Nó là quan sát người bạn đời để tìm kiếm những gì anh ta làm được hay quan sát để tìm kiếm những gì anh ta làm sai, để chỉ trích hay biểu lộ sự tôn trọng và cảm kích.”
Các nhà nghiên cứu thấy rằng sự coi thường là yếu tố hàng đầu phá vỡ các đôi vợ chồng.

Sự tử tế là chất keo gắn các đôi với nhau. Những nghiên cứu khác độc lập với nhà Gottman cũng cho thấy sự tử tế (cùng sự ổn định về tình cảm) là yếu tố dự báo quan trọng nhất cho sự hài lòng và ổn định trong hôn nhân. Sự tử tế khiến mỗi người trong cặp vợ chồng cảm thấy được quan tâm, được hiểu và được cảm thấy mình quan trọng – tóm lại là được yêu. “Tình cảm của em vô biên như biển cả,” Juliet của Shakespeare đã nói như vậy. “Tình yêu của em cũng sâu thẳm như vậy. Em càng cho anh bao nhiêu thì em càng có nhiều bấy nhiêu, bởi vì cả hai đều là vô hạn.” Câu đó cũng áp dụng với sự tử tế. Có rất nhiều bằng chứng cho thấy một người càng nhận được hay chứng kiến sự biểu hiện của lòng tốt bao nhiêu thì bản thân người đó cũng trở nên tốt bụng bấy nhiêu, và điều đó tạo ra một vòng xoáy đi lên của tình yêu và sự hào hiệp trong mối quan hệ.
Có hai cách để nghĩ về sự tử tế. Bạn có thể nghĩ về nó như một đặc điểm cố định: hoặc là bạn có nó, hoặc bạn không. Hay là bạn có thể nghĩ về sự tử tế như một cơ bắp. Ở một số người, cơ bắp ấy khỏe hơn ở những người khác một cách tự nhiên, nhưng nó có thể phát triển tốt hơn ở tất cả mọi người bằng cách tập luyện. Nhóm bậc thầy có xu hướng nghĩ về sự tử tế như một cơ bắp. Họ biết rằng họ phải rèn luyện để giữ nó được khỏe mạnh. Nói một cách khác, họ biết rằng mối quan hệ tốt đòi hỏi sự cố gắng thường xuyên và dài hạn.
 “Sự tử tế không có nghĩa là chúng ta không thể hiện sự tức giận,” Julie Gottman giải thích, “nhưng sự tử tế hướng dẫn chúng ta thể hiện sự tức giận ấy thế nào. bạn có thể giải thích tại sao bạn đang bị tổn thương và giận dữ, và đó là cách của sự tử tế.”
John Gottman giải thích thêm: “Nhóm sa lầy sẽ nói một cách khác trong cuộc cãi lộn. Họ sẽ nói, “Anh lại muộn rồi. Anh bị làm sao thế? Anh giống hệt như mẹ anh vậy.” Nhóm bậc thầy sẽ nói, “Em không muốn phải nói nhiều về việc anh lại muộn, và em biết đó không phải lỗi của anh, nhưng nó thực sự làm em rất bực mình.”
Theo Emily Esfahani Smith.

Nữ giáo sư gốc Việt Lưu Lệ Hằng và những đóng góp của cô trong thiên văn học của thế giới.


Lưu Lệ Hằng sinh tháng 7 năm 1963 tại miền Nam Việt Nam, cha làm phiên dịch cho Quân đội Hoa Kỳ. Thời trẻ cha cô dạy tiếng Pháp.
Lưu di tản sang Hoa Kỳ năm 1975 khi 12 tuổi, đã khá giỏi tiếng Pháp, cô đã học tiếng Anh trong một mùa hè ở trường học Mỹ với một cuốn từ điển Pháp-Anh trong tay, và xuất sắc trong các môn khoa học. Sau khi cô đến Hoa Kỳ, tiếng Anh khá tốt để cuối cùng có thể bỏ qua một lớp. 

Cô tốt nghiệp trung học với tư cách thủ khoa và sau đó giành được học bổng tại Đại học Stanford, Tốt nghiệp cử nhân vật lý năm 1984 Làm việc tại Phòng thí nghiệm Động cơ phản lực tại NASA. Cô trở thành công dân Mỹ nhập tịch năm 1986.

Lưu đã nhận được một học bổng từ Viện Khoa học vũ trụ, học cao học tại Đại học California – Berkeley, ngành thiên thể học, cùng lúc đó cô làm việc cho Phòng thí nghiệm sức đẩy phản lực (Jet Propulsion Laboratory) ở Pasadena.

Năm 1992 lấy bằng tiến sĩ, Lưu làm giáo sư trợ lý tại Đại học Harvard, từ năm 1994. Lưu là giáo sư tại Đại học Leiden ở Hà Lan. Sau thời gian ở Châu Âu, Lưu trở về Hoa Kỳ và làm việc với tư cách là nhà khoa học cao cấp tại Phòng thí nghiệm Lincoln tại MIT. Cô hiện đang nghiên cứu các dự án công nghiệp quốc phòng, đặc biệt là các hệ thống radar dựa trên laser. các giải pháp công nghệ cho vấn đề an ninh quốc gia của Hoa Kỳ,

Hiệp hội Thiên văn Hoa Kỳ đã trao giải Annie J. Cannon Award Thiên văn học
Năm 1991, Hiệp hội Thiên văn Hoa Kỳ đã trao giải Annie J. Cannon Award Thiên văn học cho cô. Để ghi nhận công lao của cô trong việc khám phá ra hơn 30 tiểu hành tinh, người ta lấy tên cô đặt cho tiểu hành tinh 5430 Luu.

giải thưởng Shaw
Năm 2012 Giải Shaw Thiên văn học được trao cho 2 nhà thiên văn học David C. và Jane X. Lưu (Lưu Lệ Hằng), ghi nhận công lao cho khám phá và mô tả các vật thể xuyên sao Hải Vương, một kho báu khảo cổ có từ thời hình thành của hệ mặt trời và nguồn gốc của các sao chổi.

Năm 2012 Giải Kavli Thiên văn học (được mệnh danh là "Giải Nobel Thiên văn học" của thế giới). được trao cho công trình khám phá ra vành đai Kuiper của ba nhà thiên văn học: David C. Jewitt và Jane X. Lưu (Lưu Lệ Hằng). Giải Kavli Thiên văn học 2012 ghi nhận công trình khám phá ra vành đai Kuiper và những vật thể lớn nhất của nó. dẫn đến sự hiểu biết về lịch sử của hệ thống hành tinh ". giúp ta có những bước tiến lớn trong việc tìm hiểu lịch sử hệ Mặt trời.

Năm 2012 quả là năm của người phụ nữ gốc Việt khi cái tên Lưu Lệ Hằng được xướng danh ở cả hai giải thưởng thiên văn học danh giá nhất thế giới.. Mỗi giải thưởng mang về giải thưởng tiền mặt trị giá 1 triệu USD, mà người nhận chia sẻ. 

Áo phông của Jane Lưu viết: "Không sao đâu, Sao Diêm Vương. Tôi cũng không phải là một hành tinh."
Lưu thích đi du lịch, và đã làm việc cho Save the Children ở Nepal, cô thích nhiều hoạt động ngoài trời và chơi cello. Cô gặp chồng mình, Ronnie Hoogerwerf, cũng là một nhà thiên văn học xuất sắc, khi làm việc ở Hà Lan, họ có một con với nhau.


Thứ Bảy, 14 tháng 3, 2020

Mặt tối của "Trẻ ngoan"



Mặt tối của "Trẻ ngoan"

Các em làm bài tập đúng giờ, chữ viết ngay hàng thẳng lối, phòng ngủ sắp xếp gọn gàng. Các em thường hơi dè dặt, muốn giúp đỡ bố mẹ, việc gì cũng đuọc các em thực hiện đâu vào đó.
Vì các em không thể hiện nhiều vấn đề trực tiếp nên ta hay cho rằng mọi thứ đều ổn với những đứa trẻ ngoan. Các em không nhận được sự quan tâm "đặc biệt" như bọn trẻ quậy phá hay "vẽ bậy" trên tường nhà. Người ta nghĩ rằng trẻ ngoan thì ổn, vì trẻ làm mọi thứ mà người khác kì vọng ở chúng. Và tất nhiên, đó chính là “vấn đề”.

Những nỗi đau khổ thầm kín và khó đoán trong tương lai của một đứa trẻ ngoan bắt nguồn từ nhu cầu bên trong của chúng đối với việc tuân thủ quy tắc quá mức. Đứa trẻ ngoan không ổn vì xu hướng trớ trêu này khiến chúng không thể trở thành bất cứ ai khác. Chúng ngoan ngoãn vì không còn lựa chọn nào khác. Sự ngoan ngoãn này là bắt buộc thay vì một lựa chọn.
Trẻ ngoan trở thành một người nắm giữ quá nhiều bí mật và giao tiếp cực kỳ kém về những chuyện không được ưa thích nhưng quan trọng. Chúng hay nói lời ngọt ngào, giỏi thoả mãn kỳ vọng của người khác nhưng lại chôn giấu suy nghĩ và cảm xúc thật sự của mình. Và rồi gây ra các triệu chứng thần kinh, sự cắn rứt, sự bùng nổ bất chợt, và sự cay đắng.

Căn bệnh của những đứa trẻ ngoan là chúng chưa từng trải nghiệm tình huống người khác chịu đựng được sự hư hỏng của chúng. Chúng bỏ lỡ một đặc quyền quan trọng dành cho những đứa trẻ khỏe mạnh, đó là được thể hiện sự ghen tỵ, tham lam, ích kỷ, và vẫn được yêu thương.
Ở công sở, người tốt cũng có những vấn đề. Khi còn nhỏ, họ tuân thủ các quy tắc, chưa từng gây rắc rối và cẩn thận không làm phiền tới ai. Nhưng việc tuân thủ quy tắc sẽ không đưa bạn đi xa trong thế giới người lớn. Gần như mọi việc thú vị, đáng để làm hoặc quan trọng đều phải đối mặt với sự phản đối nhất định.
Một ý tưởng tuyệt vời sẽ luôn làm một số người khó chịu, nhưng nó rất xứng đáng để theo đuổi. Trẻ ngoan bị gắn với một sự nghiệp tầm thường và thói quen làm hài lòng người khác.

Một người trưởng thành thực sự sẽ có một mối quan hệ thẳng thắn và không lo sợ có những mặt tối, sự phức tạp và tham vọng. Trưởng thành liên quan đến việc hiểu rằng không phải điều gì khiến ta vui cũng làm người khác vui, hay ta sẽ được xã hội xem là "tốt", mà là ta vẫn nên khám phá và trân trọng điều ta thích dù thế nào đi nữa.
Khao khát làm người tốt là một trong những khao khát đáng yêu nhất trên đời, nhưng để có một cuộc sống thật sự tốt, đôi khi ta cũng cần dũng cảm "nổi loạn" một cách tích cực.

ST