Thứ Ba, 9 tháng 11, 2021

GS Trần Đức Thảo - Một tài năng triết học nổi tiếng thế giới

 

GS TRẦN ĐỨC THẢO - MỘT TÀI NĂNG TRIẾT HỌC NỔI TIẾNG THẾ GIỚI

 

Việc xuất hiện một tài năng triết học hiện đại ở một đất nước còn nghèo nàn, lạc hậu, khoa học chưa phát triển như nước ta là một hiện tượng hiếm lạ.

Một hiện tượng hiếm lạ

Giáo sư Trần Đức Thảo sinh ngày 26/9/1917 tại xã Song Tháp, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Phụ thân ông là một viên chức nhỏ. Thời trẻ, Trần Đức Thảo theo học Trường Albert Sarraut, đỗ "tú tài Tây" về triết loại loại xuất sắc, vào học Trường đại học Luật tại Hà Nội một thời gian, rồi sang Pháp ôn luyện để thi vào École normale supérieure d'Ulm (Đại học Sư phạm phố Ulm). Đây là một trong mấy grandes écoles (trường lớn) của nước Pháp, nơi từng đào tạo nên nhiều nhà tư tưởng, nhà khoa học lừng danh.

Trường tuyển sinh rất khó, học bổng rất cao. Nhiều chính khách lỗi lạc, nhiều nhà bác học đoạt Giải thưởng Nobel vẫn lấy làm hãnh diện nếu thời trẻ mình từng là normalien - "học trò sư phạm". Một vài trí thức nước ta đầu thế kỷ 20 ưa dùng từ Hán-Việt thường gọi trường này là "tối cao học phủ" của nước "Pháp Lan Tây" (phiên âm đầy đủ từ France)! Trước kia, chỉ một số rất ít người Việt Nam ta như Hoàng Xuân Hãn, Phạm Duy Khiêm, Lê Văn Thiêm, Trần Đức Thảo, Trần Thanh Vân (1)... trúng tuyển vào bậc đại học, cao học hay bậc nghiên cứu sinh của trường này. Gần đây, một số nhà toán học trẻ Việt Nam xuất sắc như Ngô Bảo Châu (2), Phan Dương Hiệu (3)... cũng đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại đây.

Năm 1939, Trần Đức Thảo đỗ rất cao vào Đại học Sư phạm phố Ulm. Năm 1942, ông tốt nghiệp cao học (diplôme d'études approfondies - DEA) với bản luận văn Phương pháp hiện tượng học của Husserl. Năm sau, ông đỗ thạc sĩ triết học hạng nhất, ở tuổi 26. Cần lưu ý điều này: Kỳ thi để nhận học vị agrégé, mà hồi đầu thế kỷ 20 các cụ nhà ta vẫn dịch là thạc sĩ, là một kỳ thi tuyển rất khó, số người đỗ rất ít, không giống với việc thi cao học (master) mà giờ đây ta cũng dịch là thạc sĩ. Tuy vẫn là tấm bằng mà tiếng Việt gọi là thạc sĩ, nhưng tính chất khác nhau nhiều lắm.

Edmund Husserl là một nhà triết học Đức nổi tiếng, bị bọn Hitler cấm giảng dạy tại các trường đại học ở Tây Âu. Người hướng dẫn Trần Đức Thảo viết luận án tiến sĩ là Giáo sư Jean Cavaillès rời bỏ Paris ra "bưng biền" tham gia kháng chiến chống phát-xít. Điều đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến việc "nhận đường" của nhà triết học Việt Nam trẻ tuổi.

Nguyện vọng trở về tham gia cách mạng

 

Năm 1944, Paris giải phóng. Thạc sĩ Trần Đức Thảo được cử làm báo cáo viên chính trị tại Đại hội kiều dân Đông Dương họp trong toà thị chính Avignon, nơi mà ông thị trưởng là một đảng viên cộng sản. Trước Đại hội, Trần Đức Thảo trình bày bản dự thảo cương lĩnh đòi thiết lập nền dân chủ ở Đông Dương.

Cách mạng Tháng Tám thành công ở Việt Nam càng khích lệ ông hăng say hoạt động xã hội. Ông viết tài liệu tuyên truyền, tổ chức các cuộc họp báo để ủng hộ Việt Minh và Chính phủ Hồ Chí Minh. Trong một buổi họp báo, một nhà báo Pháp hỏi: "Người Việt Nam sẽ đón tiếp ra sao khi quân đội viễn chinh Pháp đổ bộ?". Thạc sĩ Trần Đức Thảo trả lời ngắn gọn mà đanh thép: "Nổ súng!"

Tháng 10/1945, ông và 50 kiều bào ta bị nhà cầm quyền Pháp bắt giam về cái "tội" gọi là "vi phạm an ninh nhà nước". Báo L'Humanité (Nhân đạo) và báo Les Temps modernes (Thời hiện đại) đăng bài phản đối hành động đàn áp đó.

Ba tháng bị đoạ đày trong xà - lim kín mít khiến cho ông thấm thía nhiều điều. Ra tù, ông liên tiếp viết bài cho nhiều tờ báo Pháp, bác bỏ những luận điệu vu khống Mặt trận Việt Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương.

Năm 1946, trong thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm nước Pháp, ông bày tỏ với Chủ tịch nguyện vọng sẽ trở về nước tham gia cách mạng ngay sau khi bảo vệ xong luận án tiến sĩ.

Mấy tháng sau, thực hiện lời hứa của mình trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông rời nước Pháp trở về Tổ quốc qua đường London - Prague - Moskva - Bắc Kinh - Tân Trào. Ông trở thành một vị giáo sư đại học giữa rừng già chiến khu Việt Bắc.

Công trình triết học đầu tiên của Trần Đức Thảo gây tiếng vang lớn trong giới học thuật phương Tây là cuốn Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật bịên chứng. Theo Bernard và Dorothée Rousset viết trong cuốn Dictionnaire des phylosophes (Từ điển các nhà triết học) do Nhà xuất bản Đại học ở Paris in năm 1984, thì cuốn sách ấy của nhà triết học Việt Nam là "một tác phẩm gây sửng sốt" mà tính táo bạo trong cách nhìn và sự sáng tỏ trong cách diễn đạt đã nhanh chóng được coi là "kinh điển"... Cuốn sách "đóng vai trò quan trọng trong việc đào luyện nhiều nhà triết học trẻ"...

“Từ điển các nhà triết học” là một công trình hàn lâm đồ sộ, dày 2.725 trang, giới thiệu thân thế và sự nghiệp của các nhà triết học trên thế giới từ thời cổ đại cho đến thời nay. Có những tên tuổi chỉ được dành cho 2-3 dòng ngắn ngủi. Nhưng Trần Đức Thảo được trang trọng giới thiệu tới 3 trang khổ lớn.

Trần Đức Thảo đã đột ngột qua đời hồi 8 giờ 10 phút ngày 24/4/1993, tại Bệnh viện Broussais, Paris, thọ 76 tuổi.

Theo Dân Trí,

Chân lý cuộc sống

 

CHÂN LÝ CUỘC ĐỜI, CÀNG NGẪM CÀNG THẤM


Chân lý chính là sự thật của cuộc sống, nó luôn luôn đúng và tồn tại mãi mãi theo thời gian.

Mỗi người khi sống trong cuộc đời, cần phải nắm bắt những giá trị do cuộc sống đem lại. Điều này được những bậc tiền bối ghi nhận và đưa ra được 12 chân lý cuộc đời.


1. Nếu giọt nước rơi xuống hồ, nó sẽ biến mất. Nhưng nếu rơi xuống lá sen, nó sẽ tỏa sáng như một viên ngọc. Rơi giống nhau nhưng ở cùng ai mới là điều quan trọng.

2. Trong cuộc sống bạn nhận được những gì bạn cho đi. Nếu bạn muốn được yêu, hãy yêu thương người khác. Nếu bạn muốn có bạn bè, hãy tỏ ra thân thiện. Nếu bạn muốn có tiền, hãy tạo ra những thứ giá trị. Điều này thật sự rất đơn giản.

3. Thứ gây nghiện và có hại nhất trên đời chính là sức hấp dẫn của sự nhàn hạ và sung túc.


4. Nếu bạn muốn có những thứ chưa từng có, bạn phải làm những việc chưa từng làm!

5. Thứ đắt giá nhất trên đời này là lòng tin. Để có được nó đôi khi cần rất nhiều thời gian, nhưng để đánh mất nó chỉ cần vài giây ngắn ngủi.

6. Thể diện rốt cuộc bao nhiêu tiền một cân? Tại sao chúng ta phải để tâm đến cách nhìn của người khác.

7. Nếu đam mê chở bạn đi, hãy để lý trí nắm dây cương.

8. Đừng kể rắc rối của bạn cho bất kỳ ai. 20% chẳng quan tâm, còn 80% thì vui mừng vì bạn gặp chuyện.


9. Trong cuộc sống, giai đoạn khó khăn nhất không phải là không ai hiểu bạn, mà là… bạn không hiểu chính mình.

10. Tình yêu, tình bạn, không phải là cả đời không cãi nhau, mà là cãi nhau rồi vẫn có thể bên nhau cả đời.

11. Sự chân thành là điều tốt đẹp nhất bạn có thể đem trao tặng một người. Sự thật, lòng tin cậy, tình bạn và tình yêu đều tùy thuộc vào điều đó cả.

12. Phụ nữ, không cần phải nghiêng nước nghiêng thành, chỉ cần một người đàn ông nghiêng về cô ấy cả một đời!


Cuộc sống có những chuyện phải trải qua mới trưởng thành, có những nổi đau phải trải qua mới có thể hiểu thấu. Những chân lý phía trên được đúc kết lại, giúp cho mỗi người nâng bước trước sóng gió của cuộc đời.

Thứ Hai, 8 tháng 11, 2021

Thư khiêu chiến của Đại tá De Castries

 

THƯ KHIÊU CHIẾN CỦA ĐẠI TÁ DE CASTRIES GỬI ĐẾN ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP Ở TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ

Giữa tháng 12/1953, hai bộ chỉ huy quân Pháp và Việt Nam quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược cho cục diện chiến tranh Đông Dương. Hai bên dốc toàn lực cho trận đánh quyết định.

Tuy nhiên, Một ngày trước giờ G, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định chuyển từ phương án "Đánh nhanh, Thắng nhanh" thành "Đánh chắc, Thắng chắc", rút toàn quân ra chuẩn bị lại. Đồng thời ông đã điều Đại đoàn 308 đánh sáng Lào vừa để nghi binh, thu hút quân đội Pháp tạo điều kiện rút quân và bố trí lại lực lượng và cũng vừa để phá thế trận liên hoàn Luang Phrabang - Xốp Nao - Điện Biên Phủ.

Trước khả năng quân Việt Nam từ bỏ Điện Biên Phủ, qua truyền đơn, Đại tá de Castries đã gửi tới Đại tướng Võ Nguyên Giáp một bức thư khiêu chiến. Chi tiết này sách Việt Nam nhiều nơi đã nói, nhưng chắc chưa ai thấy bức thư này. Nay xin giới thiệu cả nhà nội dung bức thư nói trên. Ảnh từ Thư viện Bộ Quốc phòng Pháp.


 Được biết có 150.000 bản được in ra dự trù cho việc sau khi chiến thắng Việt Minh quân Pháp sẽ gửi tặng làm kỷ niệm cho các viện bảo tàng, tặng binh lính và rải nhiều nơi ở Việt Nam. Tuy nhiên nó đã bị tiêu hủy gần hết và được lưu giữ tại bảo tàng quân sự Pháp.

Nguồn: Fb Vo Quoc Tuan