Thứ Bảy, 12 tháng 6, 2021

Hạnh phúc có nghĩa là vội vàng vừa đủ

 

HẠNH PHÚC CÓ NGHĨA LÀ VỘI VÀNG VỪA ĐỦ

Tâm lý học hiện đại về nhận thức thời gian cho rằng: Một công dân của thế kỷ 21 có hai chế độ tư duy: tư duy năng suấttư duy giải trí.

Khi chúng ta đang sử dụng kiểu tư duy đầu tiên, chúng ta luôn cố gắng để tối ưu hóa thời gian và kết quả, chứng minh năng suất của chúng ta đối với thế giới và trên hết là đối với chính bản thân mình. Ở chế độ giải trí, nhịp điệu này sẽ chậm lại và cho phép chúng ta xem một bộ phim hay thưởng thức một ly rượu mà không cần đắn đo xem hành động của chúng ta có gây ảnh hưởng gì đến danh tiếng hay khiến ta bị đánh giá về hiệu suất hay không.

Trong những giờ phút cuối cùng của một tối chủ nhật, hai trạng thái tâm lý này chơi kéo co trong đầu ta. Khi tư duy năng suất bắt đầu hoạt động, cảm giác tội lỗi vì đã buông lỏng cả ngày trỗi dậy. Sự lo lắng về áp lực làm việc tăng dần khi tư duy giải trí dần rút lui.

Năm 2012, nhà xã hội học John P. Robinson xem lại những khảo sát kéo dài hơn 40 năm nghiên cứu về hạnh phúc của người Mỹ và hỏi xem họ thường cảm thấy “vội vã” và “dư thừa thời gian” vào những lúc nào. Ông kết luận những người hạnh phúc nhất là nhóm người “không bao giờ và không bao giờ” - những người nói họ hiếm khi cảm thấy vội vã và buồn chán, và điều này không có nghĩa là họ lười biếng. Lịch làm việc của họ đáp ứng nhu cầu năng lượng của họ. Sự chú ý mà họ bỏ ra cho công việc không khiến họ mệt mỏi.

Trong một bài luận tóm tắt nghiên cứu của mình cho Scientific American, Robinson đưa ra một phương trình hạnh phúc: “Hạnh phúc có nghĩa là vội vàng vừa đủ.

Trong một nền kinh tế công nghiệp, luật sư không làm phẫu thuật não và nhân viên sửa chữa thì không thu hoạch lúa mì - những công việc khác nhau mà chúng ta làm yêu cầu những kỹ năng khác nhau, những mệnh lệnh khác nhau và mức lương khác nhau.

Khi sự chuyên môn hóa được nâng cao và hiệu suất vượt trội được tưởng thưởng, một niềm tin cần phải cạnh tranh xuất hiện: Những người đạt thành tích cao tin rằng họ có thể và luôn phải nỗ lực để có mức lương cao hơn, ngôi nhà lớn hơn, có nhiều thể diện hơn hoặc đột phá điều gì to lớn hơn. Cảm giác thong thả khi nghỉ ngơi bị thay thế bởi sự bồn chồn.

Sự tăng lên của năng suất - dù nó đã mang lại những tiến bộ vượt bậc về khoa học và công nghệ - những nó cũng chịu trách nhiệm cho thứ Durkheim gọi là “bệnh khát vọng vô hạn”, một căn bệnh mãn tính.

Một khảo sát gần đây do Trung tâm nghiên cứu Pew thực hiện đã khảo sát xem người Mỹ ở mọi độ tuổi nghĩ về bí mật của hạnh phúc là gì và “một công việc họ thích”

Kết quả là xếp hạng cái công việc cao hơn hôn nhân, con trẻ hay bất kỳ mối quan hệ xã hội nào khác. Sự nghiệp, chứ không phải cộng đồng, là một cột mốc quan trọng trong cuộc sống của chúng ta.

Ngày nay một tương lai đảm bảo là trọng tâm của nền giáo dục và là sự phát triển của các doanh nghiệp. Nó giả định rằng sinh viên và công nhân trẻ sẵn sàng dành nhiều thập kỷ để trau dồi các kỹ năng mà họ sẽ được đền bù xứng đáng sau này.

Vậy bảo vệ sự nhàn rỗi của mình cũng là một công việc. Vì sự tiến bộ phụ thuộc vào việc chúng ta đặt hy vọng vào một thế giới ở tương lai xa, những người không thể ngừng lên kế hoạch sẽ lao động cả đời cho một cuộc sống không cách nào trọn vẹn.

Thứ Sáu, 11 tháng 6, 2021

Vấn đề đức tin trong đạo Phật

 

VẤN ĐỀ ĐỨC TIN TRONG ĐẠO PHẬT

Ðức Phật Thích Ca có dạy: “Tin là căn bản của sự thành công, và là nguồn gốc của muôn hạnh lành”. Nhưng lòng tin của người Phật Tử không phải là một lòng tin cuồng nhiệt, sôi nổi, không suy xét.

Một đức tin đưa con người đến chỗ thành công quyết không phải là một thứ mê tín. Một tín ngưỡng mù quáng không xây dựng trên lý trí xét đoán là một nguy hại lớn cho đời sống của cá nhân, của gia đình, dân tộc và xã hội. Cái tín ngưỡng sai lầm có thể làm hại tinh thần quần chúng. Sự tín ngưỡng mù quáng không căn cứ trên lý trí xét đoán đã đào luyện và sẽ đào luyện lên những trí óc lười biếng, ỷ lại, nô lệ cho hoàn cảnh, nô lệ cho dục vọng.

Một đức tin hổn tạp, thiếu căn cứ, thường hay đi với sự nương nhờ vào một thế lực phỉnh phờ. Hai thứ ấy nương nhau, có ảnh hưởng lẫn nhau rất mạnh. Hai thứ ấy cũng đều tạo nên những bộ óc yếu đuối, ỷ lại, thiếu tinh thần tự lập. Do một tin tưởng sai lầm, tinh thần càng ngày càng bị u tối, và sau bức màn thành kiến, con người làm sao trổi dậy, cường tráng và tự lập cho được?

Chính đức Phật Thích Ca cũng có dạy: “Tin ta mà không hiểu ta, ấy là bài báng ta vậy”.

Như thế, người nào tin Phật như một vị Thần linh có quyền ban phúc trừ họa tức đã bài báng Phật.

Một lòng tin chân chính phải đi theo với một lý trí xét đoán. Hiểu rồi mới tin, thì cái tin ấy mới là chánh tin. Ðối với đạo Phật, tin mà không hiểu thì sẽ lạc đường.

Ðạo Phật chủ trương cá nhân có quyền thẩm sát tất cả, và tin hay không là tùy ở mình. Chúng ta hãy đọc đoạn nầy cũng ở trong kinh Kamala:

"Ðừng vội tin tưởng những cái gì mà người ta thường lập đi lập lại luôn. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là một tập tục cổ truyền đã trải qua nhiều thời đại. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là điều người ta hay đồn và hay nói đến luôn. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là do bút tích thánh nhân xưa để lại. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là một luật lệ đặt ra từ lâu và được xem như là chánh đáng. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là do quyền năng của một bậc thầy hoặc do quyền lực của một nhà truyền giáo.

Tất cả những gì hợp với lý trí xét định, hãy tin ".

Tam Tạng giáo điển của Phật Giáo đối với Phật Tử không giống những thánh kinh đối với tín đồ các tôn giáo khác. Phật Tử không bị bắt buộc tin vào kinh điển một cách mù quáng. Kinh điển đối với Phật Giáo không phải là một “tối hậu chân lý”, một bảo vật mà ai cũng phải thờ lạy. Kinh điển không phải là những bùa chú linh thiêng mà hể đọc lên là được Ðức Phật cứu độ. Kinh điển chỉ là lời dạy của Phật, của một bậc giác ngộ.

Nếu Phật Tử không hiểu lời dạy của Phật, không thực hành theo những lời dạy của Ngài, thì Ðức Phật và tam tạng giáo điển của Ngài đối với người kia không còn ý nghĩa gì nữa cả. Bởi thế, đốt hương, kết hoa, tỏ lòng biết ơn Phật cũng chưa phải là việc cần làm nhất của một người Phật Tử chân chính. Thực hành và sống theo lời Phật dạy mới là Phật Tử chân chính vậy.

Hãy nhìn Ðức Phật ở địa vị chính của Ngài, và đừng bao giờ đặt ngài ở địa vị một thần linh, một chúa tể. Người Phật Tử nếu có tin tưởng, thì chỉ là tin tưởng ở sự dẫn đạo sáng suốt của bậc giác ngộ, tin tưởng ở khả năng giác ngộ ( Phật tính ) sẵn có ở mọi loài, chứ không phải tin nơi quyền phép có thể ban phúc trừ họa.

Hiểu như thế, ta mới thấy rằng những tâm niệm đen tối, mê tín, ỷ lại vào quyền năng vu vơ của thần thánh không phải là một lòng tin mà đạo Phật đòi hỏi. Người học Phật phải thận trọng, luôn luôn giữ thái độ khách quan trong khi tìm hiểu kinh điển, và như thế là có tinh thần khoa học. Trí óc kẻ học Phật phải là một cơ quan gạn lọc vàng sỏi, phân biệt rõ ràng, đừng để bị nô lệ cho những kiến văn, sách vở, và những thành kiến dựa vào tình cảm.

Thứ Năm, 10 tháng 6, 2021

Sự thật thú vị về tính cách con người

 

SỰ THẬT THÚ VỊ VỀ TÍNH CÁCH CON NGƯỜI


Tính cách làm nên con người chúng ta. Nó ảnh hưởng lên hầu hết tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống, từ cách chọn lựa nghề nghiệp, cách ta tương tác với gia đinh, và những lựa chọn bạn bè hoặc người yêu.

Tính cách là một chủ đề đầy lôi cuốn, trở thành một trong những đối tượng nghiên cứu kỹ càng nhất trong tâm lý học. Các nhà tâm lý học mới tìm ra được hàng loạt những yếu tố tác động lên tính cách cũng như cách tính cách ảnh hưởng lên hành vi.

1. Thứ tự sinh có thể ảnh hưởng lên tính cách. 

Những đứa con cả thường được mô tả là hơi “ra vẻ sếp” hoặc “rất có trách nhiệm”, trong khi con út đôi khi lại được cho là “bốc đồng” và “vô trách nhiệm”. Nhưng những khuôn mẫu này đúng được bao nhiêu đây?

Một vài nghiên cứu thực nghiệm đã phát hiện ra rằng những yếu tố như thứ tự sinh và kích thước của một gia đình có thể thực sự ảnh hưởng lên tính cách.

Có nghiên cứu còn phát hiện ra rằng thứ tự sinh có thể ảnh hưởng lên quyết định chọn bạn bè và người yêu; con cả có xu hướng kết thân với những đứa trẻ khác cũng là con cả, con thứ sẽ chơi với con thứ, và con út sẽ kết bạn với những đứa khác cũng là con út.

Có nghiên cứu cho rằng thứ tự sinh không có ảnh hưởng nào lên tính cách, nhưng ít nhất cũng giúp ta biết được rằng chủ đề này cần được đào sâu và tìm hiểu kỹ hơn nữa.

2. Tính cách của bạn tồn tại khá ổn định trong suốt cuộc đời. 

Trong các nghiên cứu dài hạn về tính cách, người ta thấy rằng một số đặc tính cốt lõi của tính cách sẽ khá ổn định theo thời gian. Ba khía cạnh thực sự có thay đổi theo thời gian là mức độ lo âu, sự thân thiện, và khao khát trải nghiệm cái mới.

Theo nhà nghiên cứu Paul T. Costa Jr., không có bằng chứng nào thể hiện rằng những đặc trưng tính cách chung của chúng ta sẽ thay đổi theo thời gian.

Ông giải thích trong một bài báo trên tờ New York Times, “Cái thay đổi khi bạn lớn lên và già đi đó là những vai trò và những vấn đề gây ảnh hưởng nhiều nhất lên bạn. Mọi người có thể nghĩ rằng tính cách của họ đã thay đổi khi họ lớn lên, nhưng cái thay đổi ở đây là thói quen, thể chất và sức khỏe, trách nhiệm cùng với những hoàn cảnh mới của họ – chứ không phải là tính cách căn bản”.

3. Đặc trưng tính cách có liên đới đến một số bệnh lý nhất định. 

Trong quá khứ, người ta có nghi ngờ rằng có một số đặc trưng tính cách khác nhau góp phần gây nên một số bệnh lý nhất định. Ví dụ, sự hằn học và hung hăng thường có liên hệ với bệnh lý về tim.

Gần đây, các nhà nghiên cứu đã sử dụng một kỹ thuật thống kê nhằm đánh giá lại những nghiên cứu trước đây về mối liên hệ giữa tính cách và bệnh tật. Họ đã phát hiện ra rằng thực sự có mối liên hệ giữa đặc trưng tính cách nhóm tâm lý bất ổn và 5 bệnh lý: đau đầu, hen suyễn, viêm khớp, loét tiêu hóa và bệnh tim.

Một nghiên cứu khác lại kết luận rằng tính nhút nhát có thể gây ảnh hưởng làm giảm tuổi thọ.

4. Nghiên cứu gần đây thấy rằng có 5 đặc trưng tính cách cốt lõi. 

Ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu về tính cách ủng hộ học thuyết mô hình tính cách 5 yếu tố, mô tả 5 chiều hướng lớn tạo nên tính cách ở con người:

– Tính hướng ngoại.

– Sự dễ chịu.

– Sự tận tâm.

– Tâm lý bất ổn.

– Tính cởi mở.

5. Tính cách ảnh hưởng lên sở thích cá nhân.

Từ cách bạn lựa chọn bạn bè đến gu của bạn trong âm nhạc, tính cách riêng biệt của bạn có thể tác động lên gần như tất cả các lựa chọn của bạn trong đời.

Ví dụ, bạn có thể khá tự hào rằng mình đã cân nhắc rất kỹ lưỡng các vấn đề trước khi chọn ủng hộ một ứng cử viên nào đó, nhưng nghiên cứu đã chỉ ra rằng tính cách của bạn có thể đóng một vai trò mạnh mẽ trong quan điểm và việc bầu chọn ứng viên chính trị. Một nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu tại Đại học Toronto đã phát hiện ra rằng những người tự nhận mình là hơi bảo thủ sẽ sở hữu đặc trưng tính cách trật tự ngăn nắp, trong khi những người tự nhận mình là tự do phóng khoáng sẽ có lòng thấu cảm cao hơn.

Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng những đặc trưng tính cách ẩn sâu này, trật tự hoặc tự do, đều có thể ảnh hưởng lớn lên những quyết định, quan điểm chính trị của mỗi người.


Theo tuvantamly