Thứ Sáu, 17 tháng 7, 2020

Xe đạp đã thay đổi thế giới


Vào những năm 1890, xe đạp trở thành biểu tượng của người phụ nữ mới, độc lập, tiến bộ và muốn có tiếng nói chính trị. Như Godey, một tạp chí hàng tháng của phụ nữ thời đó viết: “Bằng cách sở hữu chiếc xe đạp của mình, cô gái của thế kỷ 19 cảm thấy như lời tuyên bố độc lập của cô đã được khẳng định.

Sự ra đời của xe đạp vào cuối thế kỷ 19 đã thay đổi thế giới.

Đó là một công nghệ cực kỳ đột phá, thậm chí tương đương với điện thoại thông minh ngày nay. Trong một vài năm đầu thập niên 1890, xe đạp là phương tiện di chuyển nhanh nhất, giá cả phải chăng và phong cách nhất có thể đưa bạn đến bất cứ nơi nào bạn quan tâm, bất cứ khi nào bạn thích, và hoàn toàn miễn phí.

Hầu như bất cứ ai cũng có thể học lái xe, và hầu như tất cả mọi người đều làm như vậy. Các sultan (vua) của Zanzibar cũng đi xe đạp. Nga hoàng cũng vậy. Người thừa kế của Kabul đã mua xe đạp cho toàn bộ hậu cung của mình. Nhưng chính tầng lớp trung lưu và lao động trên toàn cầu đã thực sự biến chiếc xe đạp thành của riêng họ. Lần đầu tiên trong lịch sử, quần chúng đã thực sự di động, có thể đến và đi như họ muốn. Không cần thêm ngựa và xe ngựa đắt tiền. Xe đạp được “cưng chiều” bởi nó không chỉ nhẹ, giá cả phải chăng và dễ bảo trì, mà còn là thứ nhanh nhất trên đường.

Từ tò mò đến điên cuồng
Xã hội đã biến đổi. Phụ nữ trở nên cực kì nhiệt tình, loại bỏ những chiếc váy Victoria rườm rà mà thay vào đó là quần áo bó sát hợp lý, và họ lên đường. “Tôi nghĩ rằng việc đi xe đạp đã giúp giải phóng phụ nữ hơn bất cứ điều gì khác trên thế giới”, nhà hoạt động nữ quyền Susan B. Anthony nói trong một cuộc phỏng vấn với tờ New York Sunday World vào năm 1896. “Tôi đứng chiêm ngưỡng và vui mừng mỗi khi nhìn thấy một người phụ nữ đi trên chiếc xe hai bánh... Đó chính là hình ảnh của người phụ nữ tự do, không bị gò bó”.

Đến năm 1898, việc đi xe đạp đã trở thành một hoạt động phổ biến ở Hoa Kỳ đến nỗi tạp chí Thương mại New York tuyên bố rằng nó đã khiến các nhà hàng và nhà hát tốn hơn 100 triệu USD mỗi năm do doanh số sụt giảm. Sản xuất xe đạp trở thành một trong những ngành công nghiệp lớn nhất và sáng tạo nhất của Mỹ. Một phần ba trong số tất cả các ứng dụng bằng sáng chế là liên quan đến xe đạp - và chúng nhiều đến nỗi văn phòng bằng sáng chế của Hoa Kỳ phải xây dựng một phụ lục riêng dành cho xe đạp.

John Kemp Starley, một người Anh đã được cho là nhà phát minh ra chiếc xe đạp hiện đại. Người chú của ông, Starley cho rằng mọi người có thể có nhu cầu lớn hơn về xe đạp nếu chúng không quá đáng sợ và nguy hiểm, do đó vào năm 1885, nhà phát minh 30 tuổi bắt đầu thử nghiệm trong xưởng của mình với một chiếc xe đạp chạy bằng xích có hai bánh xe nhỏ hơn nhiều. Sau khi thử nghiệm một số nguyên mẫu, ông đã thiết kế ra chiếc xe đạp an toàn Rover, một “cỗ máy” nặng 45 pound, ít nhiều giống với những chiếc xe đạp thời hiện đại.

Một trong những nhà sản xuất lớn nhất là Xe đạp Columbia, với nhà máy ở Hartford, Connecticut. Công ty này có thể tạo ra một chiếc xe đạp trong một phút nhờ dây chuyền lắp ráp tự động của hãng, một công nghệ tiên phong mà một ngày nào đó sẽ trở thành đặc trưng của ngành công nghiệp ô tô. Là một nhà tuyển dụng tiên phong trong ngành công nghiệp đang bùng nổ.
Nữ công nhân chế tạo bánh xe đạp tại nhà máy Hercules Cycle ở Birmingham, Anh vào những năm 1940. Được thành lập vào năm 1910, tới những năm 1930 Hercules là một trong những nhà sản xuất xe đạp lớn nhất thế giới, chế tạo ra hơn 1.000 chiếc xe đạp mỗi ngày.
 
Nhu cầu vô tận đối với xe đạp đã sinh ra các ngành công nghiệp khác: vòng bi, dây cho nan hoa, ống thép, dụng cụ chế tạo chính xác - chính những ngành công nghiệp này sẽ giúp hình thành nên thế giới sản xuất như chúng ta vẫn biết, thậm chí kể cả khi xe đạp đã trở thành một thứ đơn giản như đồ chơi. Hiệu ứng này lan đến cả ngành quảng cáo. Các nghệ sĩ được thuê để tạo ra các áp phích đẹp, cung cấp một thị trường đầy tiềm năng sinh lời. Các chiến lược tiếp thị, chẳng hạn như xây dựng chiến lược để khiến các mẫu xe trở nên lỗi thời theo kế hoạch và tung ra các mô hình mới mỗi năm, đã bắt đầu với việc thương mại hóa xe đạp vào những năm 1890.

“Outing”, một trong những tạp chí thể thao sớm nhất của Hoa Kỳ, dành nhiều trang để nói về đi xe đạp. Cơn sốt xe đạp của những năm 1890 tạo ra nhu cầu lớn cho các tạp chí đi xe đạp, hướng dẫn viên du lịch, bản đồ và sách hướng dẫn, có tới 10% tất cả các quảng cáo in liên quan đến xe đạp.

Chạm tới mọi khía cạnh của cuộc sống
Với một chiếc xe đạp, mọi thứ dường như đều có thể và những người bình thường trong xã hội đã bắt đầu những chuyến đi phi thường. Vào mùa hè năm 1890, một trung úy trẻ trong quân đội Nga đã đạp từ St Petersburg tới London với vận tốc trung bình 70 dặm một ngày. Vào tháng 9 năm 1894, Cô Annie Londonderry, khi ấy 24 tuổi, đã khởi hành từ Chicago, với trang phục mới và cầm theo khẩu súng lục đính ngọc trai để trở thành người phụ nữ đầu tiên đạp xe vòng quanh thế giới. Chỉ chưa đầy một năm sau, cô đã quay lại Chicago và nhận được giải thưởng 10.000 USD.

Ở Úc, những người cắt lông cừu du cư đã chạy xe hàng trăm dặm qua những vùng hẻo lánh khô cằn để tìm việc làm. “Họ đi như thể đang lái xe trong công viên”, phóng viên Bean của tờ C.E.W nhớ lại trong cuốn sách “On The Wool Track” (Trên con đường lông cừu).

Và ở miền Tây nước Mỹ, vào mùa hè năm 1897, Trung đoàn 25 của Quân đội Hoa Kỳ - một đơn vị người Mỹ gốc Phi được gọi là những người Lính Buffalo - đã thực hiện một chuyến đi dài 1.900 dặm từ Fort Missoula, Montana, đến St. Louis, Missouri để chứng minh sự hữu ích của xe đạp cho quân đội. Mang theo đầy đủ tư trang, súng và lái xe trên những con đường thô sơ lầy lội, những người lính Buffalo đã lái xe trung bình gần 50 dặm một ngày - nhanh gấp đôi một đơn vị kỵ binh, với chi phí chỉ bằng một phần ba.
Siêu sao đầu tiên của môn đua xe đạp, American Marshall Walter “Major” Taylor đã trở thành tay đua chuyên nghiệp vào năm 1896 khi đang ở tuổi thiếu niên và lập bảy kỷ lục thế giới trong suốt sự nghiệp đạp xe của mình.

Sự ra đời của chiếc xe đạp đã chạm đến hầu hết mọi khía cạnh của cuộc sống nghệ thuật, âm nhạc, văn học, thời trang, thậm chí cả nguồn gene của con người. Hồ sơ giáo xứ ở Anh cho thấy các cuộc hôn nhân giữa các làng khác nhau đã gia tăng đáng kể trong cơn sốt xe đạp của những năm 1890. Những người trẻ tuổi mới được giải phóng nhờ xe đạp đã lang thang khắp vùng nông thôn tùy thích, cùng trò chuyện trên đường, và gặp gỡ ở những ngôi làng xa xôi.

Nhạc sĩ người Anh Henry Dacre đã tạo nên một hit lớn ở cả hai bờ Đại Tây Dương vào năm 1892 với Daisy Bell và đoạn điệp khúc nổi tiếng “a bicycle built for two” (chiếc xe đạp dành cho hai người). Nhà văn H.G. Wells, một tay đua xe đạp cuồng nhiệt và là một nhà quan sát xã hội sắc sảo, đã viết vài cuốn tiểu thuyết về xe đạp với những câu chuyện nhẹ nhàng xoay quanh những khả năng lãng mạn, tự do và đầy hòa nhập của hình thức vận chuyển mới tuyệt vời này.

Wells không phải là người duy nhất nhìn thấy vai trò của chiếc xe đạp trong việc định hình tương lai. “Tác dụng [của xe đạp] trong sự phát triển của các thành phố sẽ mang tính cách mạng”, ông viết trong một tạp chí xã hội học của Mỹ vào năm 1892.

Những người trẻ tuổi đi xe đạp ở Công viên Trung tâm của New York vào năm 1942. Sau khi gây bão trên toàn thế giới trong những năm 1890, xe đạp đã sớm bị rớt xuống vị trí của một loại “đồ chơi” khi ô tô dần chiếm ưu thế.

Trong một bài báo có tựa đề “Ảnh hưởng kinh tế và xã hội của xe đạp”, nhà văn dự đoán những thành phố sạch hơn, xanh hơn, yên bình hơn với những cư dân hạnh phúc hơn, khỏe mạnh hơn và hướng ngoại hơn. “Nhờ chiếc xe đạp”, ông viết, “những người trẻ tuổi nhìn thấy thế giới nhiều hơn và được mở mang bởi sự tương tác.

Chính hàng triệu người đi xe đạp cộng với một trong những ngành công nghiệp lớn nhất của quốc gia lúc bấy giờ đã tạo động lực chính trị dẫn đến những cải tiến nhanh chóng trên đường phố và đường ở nông thôn. Thật vậy, những người đi xe đạp đã thực sự mở đường cho thời đại của ô tô - mà thời điểm bấy giờ chưa ai có thể lường trước được.

Brooklyn đã mở một trong những con đường đầu tiên dành riêng cho xe đạp vào năm 1895 - tuyến đường từ Công viên Triển vọng đến Đảo Coney. Khoảng 10.000 người đi xe đạp đã sử dụng nó vào ngày đầu tiên khánh thành. Hai năm sau, thành phố New York ban hành luật giao thông đầu tiên trên toàn quốc để đối phó với số lượng ngày càng tăng của những “con ma tốc độ” trên xe đạp. Teddy Roosevelt, ủy viên cảnh sát thành phố, giới thiệu đội cảnh sát dùng xe đạp với khả năng bắt giữ những người lái xe tốc độ. Cho đến thời điểm ấy, chiếc xe đạp kiểu cổ điển được mệnh danh là “con cưng của công chúng” (People’s nag) vẫn là phương tiện nhanh nhất trên đường.

Nhưng đó chỉ là tạm thời. Trước khi thập kỉ kết thúc, những người bán xe đạp ở cả hai bờ Đại Tây Dương đã phát hiện ra rằng lốp xe căng, ổ đĩa xích và vòng bi có thể được kết hợp với động cơ để tạo nên những chiếc xe nhanh hơn, dù không yên tĩnh cũng không có lợi thế chi phí vận hành rẻ như xe đạp, nhưng thú vị hơn và tạo ra nhiều lợi nhuận hơn cho người bán.

Ở Dayton, Ohio, hai anh em thợ sửa xe đạp, Wilbur và Orville Wright, đang khám phá ý tưởng về một cỗ máy bay nặng hơn không khí, buộc cánh cho xe đạp để kiểm tra khả năng khí động học. Chi phí cho các nghiên cứu được trang trải bằng lợi nhuận từ cửa hàng xe đạp của họ.

Quay trở lại thị trấn Coventry, miền Bắc nước Anh, James Kemp Starley, người đã tạo ra chiếc xe đạp an toàn Rover đột ngột qua đời vào năm 1901 ở tuổi 46. Sau đó, công ty của ông đã chuyển từ việc sản xuất những chiếc xe đạp khiêm tốn sang xe máy và cuối cùng là ô tô. Đây dường như là con đường của tương lai: Ở Mỹ, một người cựu thợ sửa xe đạp khác tên Henry Ford chuyển đổi từ xe đạp sang xe máy, ô tô và mở ra kỷ nguyên ô tô.

Hạnh Duyên dịch

Thứ Năm, 16 tháng 7, 2020

5 kiểu nhầm lẫn tâm lý khiến bạn đưa ra quyết định sai lầm


Tôi thích nghĩ bản thân mình là kiểu người lý trí, nhưng thật ra tôi không được vậy. Tin vui là không phải chỉ có tôi – hoặc bạn – mà mọi người đều phi lý trí như nhau.
Trong suốt một thời gian dài, các nhà nghiên cứu và các nhà kinh tế học từng tin rằng con người luôn đưa ra những quyết định logic và có cân nhắc kỹ lưỡng. Tuy nhiên, vào những thập kỷ gần đây, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra một loạt những nhầm lẫn về tâm lý làm sai lệch cách suy nghĩ của chúng ta. Đôi khi, chúng ta có những quyết định rất logic, nhưng cũng lắm lúc chúng ta đưa ra những quyết định theo cảm xúc, phi lý trí và khó hiểu.
Sau đây là năm kiểu nhầm lẫn tâm lý thường gặp khiến bạn không đưa ra quyết định đúng đắn.

1. Thiên Lệch Kẻ Sống Sót
Ngày nay, gần như mọi kênh truyền thông trực tuyến phổ biến đều tràn ngập thiên lệch kẻ sống sót. Bất cứ nơi nào bạn cũng nhìn thấy những bài viết có tiêu đề như “8 Điều Người Thành Công Thực Hiện Mỗi Ngày” hoặc “Những Lời Khuyên Giá Trị Nhất Mà Richard Branson Từng Nhận Được” … thì bạn đang chứng kiến hành vi thiên lệch kẻ sống sót.

Chúng ta mắc sai lầm ở chỗ đánh giá quá cao những chiến lược, phương thức và các lời khuyên của một người “sống sót” nào đó, trong khi phớt lờ sự thật rằng đối với hầu hết mọi người thì những chiến lược, phương thức và các lời khuyên đó không hiệu quả.
Ví dụ : “Richard Branson, Bill Gates và Mark Zuckerberg đều bỏ học giữa chừng và trở thành tỉ phú! Bạn không cần phải đi học để thành công. Các doanh nhân chỉ cần thôi không lãng phí thời gian ngồi trong lớp và bắt đầu khởi nghiệp.”

Hoàn toàn có thể nói rằng, Richard Branson đã thành công dù không học đến nơi đến chốn, nhưng việc bỏ học không phải nguyên nhân khiến ông thành công. Cứ mỗi Branson, Gates, Zuckernerg, thì lại có hàng ngàn doanh nhân khác với các dự án thất bại, những tài khoản nợ ngập đầu và những bằng cấp dở dang. Thiên lệch kẻ sống sót không chỉ nói lên rằng một chiến lược nào đó có thể không hiệu quả với bạn, mà còn cho thấy chúng ta không thực sự biết liệu nó có đem lại hiệu quả hay không.

2. Nỗi Sợ Mất Mát
Nỗi sợ mất mát là khuynh hướng chúng ta muốn né tránh mất mát nhiều hơn là đạt được lợi ích. Nghiên cứu cho thấy, khi bạn được ai đó cho 10 đô la thì cảm giác thỏa mãn của bạn sẽ tăng lên chút ít, nhưng nếu bạn làm mất 10 đô thì cảm giác thỏa mãn của bạn sẽ giảm xuống đáng kể. Đúng, hai phản ứng trái ngược nhau, nhưng tầm quan trọng của nó không như nhau.
Khuynh hướng né tránh mất mát khiến chúng ta quyết định thiếu sáng suốt và thay đổi hành vi của mình đơn giản chỉ để giữ lại những gì mình có. Chúng ta mặc nhiên cảm thấy cần bảo vệ những thứ thuộc sở hữu của chính ta, và điều này có thể khiến chúng ta đánh giá quá cao những thứ đó so với các lựa chọn khác.

Ví dụ, việc mua một đôi giày mới có thể giúp bạn hài lòng hơn một chút. Nhưng vài tháng sau, việc phải tặng - cho đi đôi giày đó có thể làm bạn thấy cực kỳ xót của ngay cả khi bạn chưa mang nó lần nào. Bạn chưa bao giờ mang đến đôi giày, nhưng vì một số lý do mà bạn không thể chịu đựng việc từ bỏ nó. Đây chính là nỗi sợ mất mát.

3. Ảo Tưởng Về Sự Sẵn Có
Ảo tưởng về sự sẵn có đề cập đến một sai lầm mà não bộ chúng ta thường gặp phải khi cho rằng những sự việc dễ dàng đi vào tâm trí cũng đồng thời là những sự việc quan trọng nhất hoặc thường xảy ra nhất.
Ví dụ, nghiên cứu được thực hiện bởi giáo sư Steven Pinker tại Đại học Harvard cho thấy con người đang sống trong thời điểm ít xảy ra bạo lực nhất trong lịch sử. Chưa bao giờ số người được sống trong hòa bình nhiều như thời điểm hiện nay. Tỉ lệ giết người, cưỡng bức, quấy rối tình dục và ngược đãi trẻ em đều đang giảm.

Hầu hết mọi người đều kinh ngạc khi nghe số liệu thống kê này. Một số người vẫn không muốn tin. Nếu đây là thời điểm hòa bình nhất trong lịch sử, vậy tại sao ngay lúc này vẫn có quá nhiều cuộc chiến tranh đang diễn ra? Tạo sao mỗi ngày tôi vẫn nghe tin tức về các vụ cưỡng bức, giết người và phạm tội? Tại sao ai ai cũng xôn xao về bao nhiêu là hoạt động khủng bố và hủy diệt? Vậy là bạn đã đến với ảo tưởng về sự sẵn có.

Lời giải đáp cho những câu hỏi trên đó là: chúng ta không chỉ đang sống trong thời điểm hòa bình nhất trong lịch sử, mà còn trong thời điểm có hoạt động truyền thông mạnh mẽ nhất trong lịch sử. Thông tin về bất cứ thảm họa hoặc tội ác nào cũng được truyền tải lan rộng hơn bao giờ hết. Chỉ cần tìm thông tin nhanh trên Internet là bạn sẽ thấy hàng loạt thông tin về hoạt động khủng bố, nhiều hơn bất cứ tờ báo có thể đưa tin cách đây 100 năm.
Tỉ lệ phần trăm nói chung của những sự kiện nguy hiểm đang giảm xuống, nhưng khả năng bạn biết về một trong số những sự kiện đó lại tăng lên. Và chính bởi những sự kiện này luôn sẵn sàng đi vào tâm trí chúng ta, não bộ cho rằng nó diễn ra với tần suất cao hơn thực tế.
Chúng ta quá xem trọng và đánh giá quá cao tác động của những gì mình nhớ được, đồng thời xem thường và đánh giá thấp mức độ phổ biến của những gì mình không hề hay biết.
4. Hiệu ứng neo
Có một tiệm hamburger nổi tiếng dùng bánh và các loại pho-mát chất lượng cao. Trên thực đơn, họ in một câu tô đậm như sau, “GIỚI HẠN 6 LOẠI PHO-MÁT CHO MỖI CÁI BURGER.”
Thoạt đầu tôi nghĩ: “Ngớ ngẩn thật. Ai lại ăn sáu loại pho-mát trong một cái burger cơ chứ?”
Sau đó tôi nghĩ lại: “Mình sẽ chọn sáu loại nào nhỉ?”

Tôi đã không nhận ra sự khôn khéo của những người chủ tiệm cho đến khi biết về hiệu ứng neo. Bạn thấy đấy, bình thường tôi chỉ chọn một loại pho-mát cho bánh burger của mình, nhưng khi tôi đọc dòng chữ “GIỚI HẠN 6 LOẠI PHO-MÁT” trên thực đơn, thì tâm trí tôi đã bị “neo” vào một con số cao hơn nhiều so với bình thường, và hầu hết mọi người sẽ không gọi 6 loại pho-mát, nhưng cái “neo” trên thực đơn đã đủ khiến họ nâng con số trung bình từ một lát lên hai hoặc ba lát pho-mát và trả thêm 2 đô cho mỗi cái burger.

Hiệu ứng này đã được dùng đi dùng lại nhiều lần trong nhiều cuộc nghiên cứu lẫn trong môi trường thương mại. Ví dụ, các chủ doanh nghiệp phát hiện ra rằng, khi họ bảo “Giới hạn 12 sản phẩm mỗi khách hàng” thì khách hàng sẽ mua sản phẩm nhiều gấp đôi so với khi họ bảo “Không giới hạn số lượng sản phẩm.”

Có lẽ bạn biết về hiệu ứng neo nhiều nhất là trong việc định giá. Nếu một chiếc đồng hồ mới ghi giá là 500 đô-la, có thể bạn sẽ cho rằng mức giá này quá cao đối với ngân sách của mình. Tuy nhiên, nếu bạn bước vào một cửa hàng và thứ đầu tiên bạn nhìn thấy là một chiếc đồng hồ trị giá 5.000 đô-la ngay trên kệ trước mặt, thì bất chợt bạn sẽ thấy chiếc đồng hồ có giá 500 đô-la ở góc bên kia có vẻ cũng khá phải chăng. Các doanh nghiệp không bao giờ kỳ vọng bán những sản phẩm cao cấp với số lượng nhiều, mà thay vào đó, những sản phẩm này giữ vai trò rất quan trọng trong việc “neo” tâm trí khách hàng, và khiến những sản phẩm tầm trung trông có vẻ rẻ hơn nhiều so với khi nó đứng một mình.

5. Thiên Lệch Xác Nhận
Thiên lệch xác nhận nói về xu hướng chúng ta tìm kiếm và ưa chuộng những thông tin phù hợp với các niềm tin của mình, đồng thời phớt lờ và đánh giá thấp những thông tin mâu thuẫn với các niềm tin ấy.
Ví dụ, anh A tin rằng khí hậu thay đổi là một vấn đề nghiêm trọng. Anh ta chỉ tìm kiếm và đọc những tin tức liên quan đến các cuộc đàm luận về môi trường, hiện tượng thay đổi khí hậu và năng lượng tái tạo. Kết quả là anh A tiếp tục xác nhận và củng cố những niềm tin hiện tại của anh ta.
Trong khi đó, anh B không tin rằng khí hậu thay đổi là vấn đề nghiêm trọng. Anh ta chỉ tìm kiếm và đọc các bài viết về nguyên nhân tại sao thay đổi khí hậu chỉ là sự ngộ nhận, hoặc tại sao các nhà khoa học sai lầm và tất cả chúng ta đang bị lừa ra sao. Kết quả là anh B tiếp tục xác nhận và củng cố các niềm tin hiện tại của anh ta.

Thay đổi tư duy là nói dễ hơn làm. Bạn càng tin rằng mình biết một điều gì, bạn càng sàng lọc và phớt lờ mọi thông tin trái ngược với niềm tin đó.
Bạn có thể mở rộng xu hướng tư duy này ra gần như bất kỳ chủ đề nào. Nếu bạn mới mua một chiếc BMW và tin rằng nó là chiếc xế hộp “đỉnh” nhất trên thị trường, thì một cách tự nhiên, bạn sẽ đọc bất cứ bài viết nào bạn thấy ca ngợi chiếc BMW. Trong khi đó, nếu một tờ tạp chí đăng một chiếc xe khác là “lựa chọn tốt nhất của năm,” bạn sẽ đơn giản bỏ qua tạp chí đó và cho rằng ban biên tập đã sai lầm, hoặc họ tìm kiếm thứ khác với thứ bạn tìm kiếm ở một chiếc xế hộp.

Xu hướng tự nhiên của chúng ta không phải là đưa ra một giả thuyết rồi kiểm tra giả thuyết đó theo nhiều cách khác nhau để chứng minh là nó sai. Thay vào đó, nhiều khả năng là chúng ta sẽ hình thành một giả thuyết, cho rằng nó đúng, và chỉ tìm kiếm cũng như tin tưởng những thông tin ủng hộ giả thuyết của mình. Hầu hết mọi người đều không muốn biết những thông tin mới, họ chỉ muốn xem những thông tin xác nhận điều họ tin.


Bạn Nên Làm Gì Sau Khi Đọc Bài Viết Này?
Khi bạn đã hiểu về một số nhầm lẫn tâm lý phổ biến được trình bày ở trên, phản ứng đầu tiên của bạn sẽ đại loại như, “Tôi muốn ngưng điều đó lại! Làm thế nào tôi có thể ngăn không cho não bộ phạm phải những nhầm lẫn như thế?”
Đây là một câu hỏi hợp lý, nhưng mọi chuyện không hề đơn giản như vậy đâu. Thay vì nghĩ những tính toán sai lầm này là dấu hiệu của một bộ não có vấn đề, bạn nên xem nó là chứng cứ cho thấy không phải lúc nào việc bộ não dùng những cách thức nhanh chóng để xử lý thông tin cũng đều hữu dụng. Có nhiều lĩnh vực trong cuộc sống hằng ngày mà những chức năng tâm lý trên cực kỳ hữu ích. Bạn sẽ không muốn loại bỏ những cơ chế tư duy đó đâu.

Vấn đề là bộ não chúng ta thực hiện những chức năng này quá “điêu luyện” – nó lẩn vào các lối tư duy quá nhanh chóng và dễ dàng đến nỗi cuối cùng, chúng ta sử dụng những lối tư duy đó trong những tình huống không có lợi cho ta.
Trong những trường hợp như vậy, tự nhận thức bản thân thường là phương án lựa chọn tốt nhất. Hy vọng rằng bài viết này sẽ giúp bạn phát hiện những nhầm lẫn tâm lý của mình khi nó diễn ra lần tới.

Tác giả: James Clear