Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2025

Triết gia và người chăn dê

 

TRIẾT GIA VÀ NGƯỜI CHĂN DÊ

Người chăn dê vội vã cắm đầu đi về phía trước, phía sau là một con dê. Con dê dù chẳng bị buộc dây vào lôi đi, nó vẫn ngoan ngoãn bước theo sau người chăn dê như hình với bóng, bước đi cũng vội vã khẩn trương.

Triết gia thấy vậy cảm thấy lạ, liền hỏi người chăn dê: "Ông không dùng dây thừng dắt dê, tại sao nó vẫn cứ theo ông như hình với bóng vậy?"

Người chăn dê đáp: "Thứ giữ được con dê không phải là dây thừng mà là sự quan tâm chăm sóc của anh dành cho nó."

Lời bình

Câu trả lời của người chăn dê khiến triết gia nghĩ: Duy trì tình cảm giữa nguời với người cũng không phải dựa vào sự giám sát, hạn chế bởi sợi "dây thừng" hữu hình mà dựa vào tình yêu thương, sự quan tâm vô hình.

 

Thứ Năm, 11 tháng 12, 2025

Thiền sư Vạn Hạnh

 

THIỀN SƯ VẠN HẠNH

Thiền sư Vạn Hạnh sinh khoảng năm 937 và mất khoảng 1018, là một Thiền sư nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Ông là một trong những Tăng sĩ làm cố vấn cho vua Lê Đại Hành, đồng thời là người thầy của Lý Công Uẩn, đã hướng dẫn cho vị này lên ngôi thay đổi triều đại và lập ra triều Lý.

 

Từ khi còn nhỏ, khác với những đứa trẻ khác, Sư thông minh và tinh thông Tam học, nghiên cứu Bách luận, xem thường công danh phú quý.

Trong ‘Đại Việt Sử Ký Toàn Thư’ (Bản Việt dịch in năm 2011 tại Hà Nội – Nhà xuất bản Thời Đại) đã 3 lần nhắc đến vị Sư này. 

 

Lần đầu vào năm 977, khi Lý Công Uẩn được 3 tuổi, được mẹ bế đến nhà Sư Lý Khánh Vân và được nhận làm con nuôi, đến chùa Lục Tổ học. Sư Vạn Hạnh lần đầu trông thấy đã khen là khác thường về sau có thể làm vua giỏi.

Nguyên văn: “Đứa bé này (tức Lý Công Uẩn) không phải người thường, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy gỡ rối, làm bậc minh chủ trong thiên hạ.” Về sau, đúng theo lời ‘tiên đoán’ của Sư Vạn Hạnh, khi lớn lên Lý Công Uẩn làm quan nhà Lê và thăng đến chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ.

 

Lần thứ hai, trước khi vua Ngọa Triều Lê Long Đĩnh băng hà vào năm 1009, Sư Vạn Hạnh đã khuyên Lý Công Uẩn nên lập chí thay ngôi nhà Lê vì lòng dân đều oán ghét sự tàn ác của Long Đĩnh và theo lời sấm vĩ đang loan truyền trong dân gian thì họ Lý sẽ thay họ Lê.

Cụ thể là: “Mới rồi tôi thấy chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng Thân vệ là người khoan thứ nhân từ được lòng dân, lại đang nắm binh giữ quyền trong tay, đứng đầu muôn dân chẳng phải Thân vệ thì còn ai đương nỗi nữa.

 

Tôi đã hơn 70 tuổi rồi, mong được thư thả hãy chết, để xem đức hóa của ông như thế nào, thực là cái may nghìn năm có một” Cho đến khi Ngọa Triều Lê Long Đĩnh mất, Lý Công Uẩn ứng mệnh trời, thuận lòng người tự lập làm vua, cho đóng đô ở thành Thăng Long, mở ra chương mới cho lịch sử Việt Nam, mở đầu Nhà Lý kéo dài 216 năm (từ năm 1009 đến năm 1225).

 

Lần thứ ba là khi Sư Vạn Hạnh qua đời (Sư không bệnh mà mất nên người đời nói là hóa thân), có lời bàn của Sử thần Ngô Sĩ Liên: ”Sư Vạn Hạnh mới trông thấy Lý Thái Tổ, biết là người khác thường, đến khi thấy sét đánh thành vết chữ thì đoán biết thời thế thay đổi, như thế là có tri thức vượt người thường vậy.”

 

Thiền sư Vạn Hạnh còn có tài tiên tri, tiên đoán trước sự việc. Những lời tiên tri và sấm truyền của sư Vạn Hạnh được lưu truyền hầu hết trong sách Thiền Uyển tập anh và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Tiêu biểu là trường hợp nhà sư thoát chết nhờ tài tiên tri.

Cụ thể, Theo sách Thiền Uyển tập anh, thời bấy giờ có người tên Đỗ Ngân muốn ám hại thiền sư; việc chưa xảy ra thì thiền sư đã biết trước, gửi cho Đỗ Ngân bài thơ:

 

“Cây đất sinh nhau bạc với vàng,

Cớ sao thù địch mãi cưu mang.

Bấy giờ năm miệng hồn thu dứt,

Thật đến về sau chẳng hận lòng.”

Sau đó, Đỗ Ngân bèn từ bỏ dã tâm.

 

Ngày vua Lý Thái Tổ lên ngôi, thiền sư Vạn Hạnh lúc đó đang ở trong chùa Lục Tổ nhưng đã biết trước, ngài bèn nói với người bác và chú của Thái Tổ rằng: “Thiên tử đã băng, Lý thân vệ hiện đang ở nhà, tay chân họ Lý túc trực trong thành lên tới số ngàn. Trong trưa này, Thân vệ ắt được lên ngôi”. Bác và chú vua Thái Tổ thấy lo bèn sai người đi dò tin tức, mới thấy lời thiền sư nói đúng. 

Ca ngợi tài năng và công đức của sư Vạn Hạnh, vua Lý Nhân Tông đã viết bài kệ

 

“Truy tán Vạn Hạnh Thiền Sư” rằng:

Vạn Hạnh thông ba cõi

Thật hợp lời sấm xưa

Quê hương tên Cổ Pháp

Chống gậy trấn kinh vua.

 

Bản dịch

Tiếng Ru – Tố Hữu

 

TIẾNG RU – TỐ HỮU

 

Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ Tiếng Ru 

Bài thơ Tiếng Ru được Tố Hữu sáng tác trong tập thơ Gió Lộng (vào khoảng những năm 1955 – 1961) gắn liền với giai đoạn lịch sử nước ta: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống Mỹ Ngụy, thống nhất đất nước ở miền Nam.

TIẾNG RU

Con ong làm mật, yêu hoa

Con cá bơi, yêu nước; con chim ca, yêu trời.

Con người muốn sống, con ơi

Phải yêu đồng chí, yêu người anh em.

 

Một ngôi sao chẳng sáng đêm

Một thân lúa chín, chẳng nên mùa vàng.

Một người – đâu phải nhân gian?

Sống chăng, một đốm lửa tàn mà thôi!

 

Núi cao bởi có đất bồi

Núi chê đất thấp núi ngồi ở đâu?

Muôn dòng sông đổ biển sâu

Biển chê sông nhỏ, biển đâu nước còn?

 

Tre già yêu lấy măng non

Chắt chiu như mẹ yêu con tháng ngày.

Mai sau con lớn hơn thày

Các con ôm cả hai tay đất tròn.

Jessica Thảo Nguyễn bình thơ

Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ Tiếng Ru của nhà thơ Tố Hữu đã trở thành một trong những bài hát ru kinh điển của các bà, các mẹ, các chị. Tôi đã từng nghe rất nhiều bài hát ru, song bài Tiếng Ru mang đến cho tôi một cảm giác đặc biệt nhất. Lời bài thơ nhẹ nhàng, chất phác; mà mỗi câu – mỗi chữ sâu lắng đến tận tâm can; thấm đẫm triết lý nhân sinh; càng ngẫm càng hay.

 

Trong Tiếng Ru, chúng ta tìm thấy cả bầu trời tuổi thơ rong ruổi với khung cảnh tự nhiên thuần khiết; có ong, có hoa; có cá, có nước; có chim, có trời; có tre già, có măng non; có cánh đồng lúa chín; có bầu trời đêm đầy sao; có sông, có núi và có cả đại dương rộng lớn.

 

Trong Tiếng Ru, chúng ta tìm thấy lời mẹ hiền: dịu êm và ngọt lành lắm lắm.

Trong Tiếng Ru, chúng ta hiểu về giá trị của cộng đồng, của tình người, của tình đồng chí, của tình anh em, của tình thầy trò, của tình cảm gia đình ấm áp.

 

Trong Tiếng Ru, chúng ta tìm thấy và thấm nhuần quy luật của tự nhiên, rằng:

 

Núi cao bởi có đất bồi

Núi chê đất thấp núi ngồi ở đâu?

Muôn dòng sông đổ biển sâu

Biển chê sông nhỏ, biển đâu nước còn?

 

Ngôn từ của nhà thơ thể hiện rõ ý, rõ nghĩa đến mức chúng ta không cần phải giải thích nhiều. Tư tưởng này của Tố Hữu rất hợp với triết lý thuận theo tự nhiên của Lão Tử, Theo đó, núi vì không chê từng nắm đất nhỏ mà mới bồi đắp lên thành nền, thành từng đống cao to hùng vĩ. Đất chính là nền của núi vậy. 

Biển vì khéo ở chỗ thấp, không chê một giọt nước nào mà quảng đại, bao la, làm chủ của trăm sông.

 

Trong Tiếng Ru, chúng ta tìm thấy sự thiêng liêng của tình mẫu tử, tình gia đình, tình quê hương. Những tình cảm ban sơ mà rất đỗi tự nhiên ấy giống như đôi cánh nâng đỡ của mỗi con người chúng ta trong quá trình phát triển. Đôi cánh ấy chắp cho con bay cao bay xa, tiếp cho con ý chí để chinh phục mọi ước mơ. Cho con thỏa sức vẫy vùng khắp năm châu bốn biển với tình yêu vô bờ bến giành cho nhân loại nói riêng, vũ trụ nói chung.

 

Chỉ với 16 dòng thơ lục bát mà tác giả Tố Hữu đã gói ghém được bao nhiêu ân tình quê hương và tinh hoa nhân loại vào đấy. Thật là đáng khen, đáng kính, đáng tự hào và đáng ngưỡng mộ! Lời thơ giản dị, mộc mạc mà sâu lắng, đi vào lòng người; Tố Hữu quả là một nhà thơ tài hoa của nhân dân đại chúng.