HÀN MẶC TỬ - MỘT HIỆN TƯỢNG THƠ ĐỘC ĐÁO TRONG TƯ DUY THƠ VIỆT
NAM
"Ánh sáng" khác thường Hàn
Mặc Tử
Hàn Mặc Tử tên thật là
Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22/9/1912 tại ngôi làng Lệ Mỹ bên dòng Nhật Lệ, nay
thuộc thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Hàn Mặc Tử bộc lộ một tài năng thơ
ca từ rất sớm. Năm 16 tuổi, ông đã bắt đầu làm thơ và nổi tiếng trên thi đàn
với bài thơ đầu tiên “Vội vàng chi lắm” họa vận bài Gởi nhạn của nhà thơ Mộng
Châu. Thơ Hàn Mặc Tử thuở ban đầu mang đậm dấu cổ thi, chất trữ tình trong thơ
ông là chất trữ tình cổ điển, với lối so sánh ước lệ và thể thơ Đường
luật. Tuy nhiên, dẫu bắt đầu bằng những khuôn mẫu nhưng thơ của Hàn đã mầm
mống xuất hiện những phá cách đầy táo bạo:
“Bóng nguyệt leo song
rờ rẫm gối,
Gió thu lọt cửa cọ mài
chăn”…
(Thức khuya)
Từ những năm ba mươi
của thế kỷ, trong tư duy nghệ thuật của mình, Hàn Mặc Tử đã có ý thức đi tìm
cái lạ và nung nấu thi hứng sáng tạo ở một cường độ cao: Thế giới nghệ thuật
trong thơ Hàn Mặc Tử vô cùng phong phú và đa dạng như ông đã từng nói:
"Vườn thơ của tôi rộng rinh không bờ bến. Càng đi xa càng ớn lạnh ".
Trữ
tình gợi cảm trong đau thương
Trong cuốn: "Hàn
Mặc Tử: một hiện tượng thơ độc đáo trong tư duy thơ Việt Nam", nhà phê
bình văn học Đỗ Lai Thúy cho rằng: Có lẽ chính từ cuộc sống mỏi mòn trong bệnh
tật, cô đơn, trong bóng đêm hoang hoải đầy ác mộng, ẩn ức, ám ảnh giữa thực và
mộng của ông đã thăng hoa từ vô thức mà bừng lên những hình ảnh siêu thực trên
cái nền lãng mạn:
“Không gian dày đặc
toàn trăng cả
Tôi cũng trăng mà nàng
cũng trăng”
“Nước hóa thành trăng
trăng ra nước
Lụa là ướt đẫm cả
trăng thơm”…
Đọc thơ của Hàn Mặc
Tử, có khi người ta cảm thấy bứt rứt kinh khủng bởi lối nói đậm vẻ phương Đông
vừa lộ liễu vừa kín đáo. Thơ ông không áp đặt người đọc phải cảm nhận những gì
ông cảm nhận, những con chữ chỉ đóng vai trò đòn bẩy, là phương tiện mở ra
những liên tưởng độc đáo, làm bật lên cảm xúc riêng biệt trong mỗi người, từ đó
mà ta đón nhận những mỹ cảm một cách tròn đầy hơn.
“Trăng nằm sõng soài
trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả
lơi
Hoa lá ngây tình không
muốn động
Lòng em hồi hộp chị Hằng
ơi”
(Bẽn lẽn)
Nhà thơ đã mở rộng
"túi thơ" của mình để đón nhận và để dâng hiến. Nói chuyện tâm hồn mà
vẫn giản dị như đời thường. Ngay cả trong những câu thơ hay nhất, mang chiều
kích rộng lớn, bao la của vũ trụ ông vẫn dùng cách nói như thế:
Áo ta
rách rưới trời không vá,
Mà bốn
mùa trăng mặc vải trăng.
(Lang
thang)
Đây thôn
Vĩ Dạ được giới thiệu trong
sách ngữ văn lớp 11 và được coi là một trong những tác phẩm kinh điển miêu tả
cảnh đẹp nên thơ của xứ Huế. bài thơ gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử
với một cô gái có tên là Kim Cúc, quê ở thôn Vĩ Dạ, ngôi làng xinh đẹp nằm bên
bờ sông Hương.
Sao
anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn
nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn
ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá
trúc che ngang mặt chữ điền.
Thời điểm viết bài thơ
này, Hàn Mặc Tử đã mắc bệnh nặng và nỗi nhớ Huế hẳn đã khiến ông day dứt khôn
nguôi. Chỉ là ánh nắng buổi ban mai mà bừng sáng cả một bài thơ đẹp.
Gió
theo lối gió, mây đường mây,
Dòng
nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền
ai đậu bến sông trăng đó,
Có
chở trăng về kịp tối nay?
Gió và mây, hình ảnh
thường tượng trưng cho đôi lứa gắn bó, song hành nhưng trong câu thơ của Hàn
Mặc Tử, đó lại là cảm xúc chia lìa. Gió mây đã không chung đường nên bến sông
cũng "buồn thiu" chỉ còn những bông hoa ngô ủ dột lay động nhẹ nhàng
theo cơn gió.
Ngày 11/11/1940, Hàn
Mặc Tử đã trút hơi thở cuối tại Quy Hoà. Ngôi sao ấy xẹt qua bầu trời thi ca
Việt nhưng đã kịp để lại vầng sáng lạ lùng và dữ dội. Nửa đời người chưa qua
hết nhưng Hàn Mặc Tử đã làm tròn sứ mệnh của mình, để lại cho nền văn học Việt
Nam một đời thơ giá trị. Thật đúng như nhà thơ Chế Lan Viên đã nhận định: “Mai
sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, còn lại chút gì trên
đời này đáng kể, đó chính là Hàn Mặc Tử”…
Theo Diệp Ninh (TTXVN)