Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ ca. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ ca. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 17 tháng 10, 2024

“Đừng tưởng” – Bài thơ vui về sự “vi diệu” bất ngờ của cuộc sống

 

“ĐỪNG TƯỞNG” – BÀI THƠ VUI VỀ SỰ “VI DIỆU” BẤT NGỜ CỦA CUỘC SỐNG

Đừng tưởng cứ trọc là sư

Cứ vâng là chịu, cứ ừ là ngoan

Đừng tưởng có của đã sang

Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây

Đừng tưởng cứ đợi là chờ

Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần

Đừng tưởng cứ mới là tân

Cứ hứa là chắc cứ ân là tình

Đừng tưởng cứ quyết là nên

Cứ mạnh là thắng cứ mềm là thua

Đừng tưởng cứ lớn là khôn

Cứ bé là dại, cứ hôn… là chồng

Đừng tưởng cười nói ân cần

Nhiều khi hiểm độc, dần người tan xương.

Đừng tưởng trong lưỡi có đường

Nói lời ngon ngọt mười phương chết người

Đừng tưởng góp sức là chung

Chỉ là lợi dụng mánh mung làm nền

Đừng tưởng cứ tiến là lên

Cứ lui là xuống, cứ yên là nằm

Đời người lúc thịnh, lúc suy

Lúc khỏe, lúc yếu, lúc đi, lúc dừng

Bên nhau chua ngọt đã từng

Gừng cay, muối mặn, xin đừng quên nhau

Ở đời nhân nghĩa làm đầu

Thủy chung sau trước, tình sâu, nghĩa bền

Ai ơi nhớ lấy đừng quên…!

Khuyết danh

 

Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2024

Bình bài thơ "Đèo Ba Dội" của Hồ Xuân Hương

 

BÌNH BÀI THƠ "ĐÈO BA DỘI" CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG

Một đèo, một đèo, lại một đèo,

Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.

Cửa son đỏ loét tùm bum nóc,

Hòn đá xanh rì lún phún rêu.

Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,

Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.

Hiền nhân quân tử ai là chẳng?

Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.

Đèo Ba Dội hay còn gọi là đèo Tam Điệp là ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa, gồm ba dốc cao nối tiếp nhau.

Đèo có một cổng giống như cổng thành sơn màu đỏ. Lâu năm, cây cỏ mọc um tùm trên nóc làm tăng thêm vẻ cổ kính.

Hồ Xuân Hương ở bài thơ này, câu phá đề rất lạ:

Một đèo, một đèo, lại một đèo,

Sao nữ sĩ không viết là: Một đèo, hai đèo, lại ba đèo? Vì viết như thế thì lộ rõ vị trí của người đếm là nhìn từ xa. Còn viết: Một đèo, một đèo, lại một đèo thì nhạc điệu câu thơ cho thấy tư thế, thậm chí cả hơi thở mệt nhọc của người đang cố leo đèo.

Vừa hết dốc này, chưa kịp nghỉ ngơi cho khỏe thì dốc khác lại sừng sững trước mắt. 

Lên đến đỉnh đèo, lữ khách thở phào sung sướng trước cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ hiện ra trước mắt và bật thốt lên lời khen ngợi:

Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.

Ở những bài viết về đề tài thiên nhiên, Hồ Xuân Hương gọi đấng sáng tạo ra muôn vật trên mặt đất là Tạo hóa… thì ở bài này, bà dùng đại từ phiếm chỉ "ai" và như thế là nữ sĩ đã hạ bớt quyến năng tối thượng của siêu nhiên để cho gần với con người hơn.

Hai câu thực tả chi tiết:

Cửa son đỏ loét tùm bum nóc,

Hòn đá xanh rì lún phún rêu.

Cửa son, hòn đá... là những sự vật bình thường nhưng Cửa son đỏ loét và Hòn đá xanh rì thì đã thấp thoáng dấu ấn Xuân Hương.

Thêm hai tính từ đỏ loét và lún phún đã rõ ràng là Xuân Hương chẳng lẫn bởi bà rất giỏi trong sáng tạo và chơi từ độc!

Hai câu luận tiếp tục tả cảnh đèo Ba Dội:

Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc

Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo

Ngay cái kiểu đưa tính từ lên trước danh từ chỉ sự vật cũng thể hiện chủ ý của nữ sĩ là muốn nhấn mạnh tính chất, đặc điểm của sự vật đang hiện hữu trước mắt. Nghệ thuật đối ở cặp câu luận quá chỉnh:

Lắt lẻo cành thông/ Đầm đìa lá liễu; cơn gió thốc / giọt sương gieo.

Liên tưởng bất ngờ và thú vị nằm ở hai câu kết:

Hiền nhân quân tử ai là chẳng?

Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.

Cái này mới thật sự Hồ Xuân Hương đây! Tả thực mà ám chỉ, thanh mà tục, tục mà thanh.

Ngày xưa, những đệ tử của Nho giáo theo đòi nghiệp bút nghiên hay muốn học hành đỗ đạt để ra làm quan đều phải vào Kinh ứng thí (kinh đô Huế).

Muốn vào Huế thì bắt buộc phải leo qua đèo Ba Dội cheo leo, hiểm trở, cho dù mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo; sức cùng lực kiệt vẫn muốn trèo!!! Chứng tỏ "cái đèo" ấy có sức cuốn hút ghê gớm khó mà cưỡng lại.

Đúng là tiếng cười châm biếm của nữ sĩ họ Hồ đau như roi quất vào mặt và tiếng cười khanh khách ấy còn vọng mãi tới bây giờ - khi đám đạo đức giả đang nhan nhản trong xã hội.

Theo: Hoa Mai

 

Thứ Ba, 8 tháng 10, 2024

Đại thi hào Nguyễn Du thời trẻ


ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU THỜI TRẺ

Xưa kia, Trường Lưu vốn có phường vải rất nổi tiếng với nhiều cô gái đẹp người, hát hay và nhiều ông thầy mách lời tài ba là các nhà thơ mang họ Nguyễn Huy như Nguyễn Huy Oánh, Nguy Huy Quýn,,,,. Tài tử giai nhân khắp nơi nghe tiếng đều muốn đến để đọ tài và thưởng sắc con gái Trường Lưu.

Một cách rất tự nhiên, Trường Lưu trở thành địa điểm hát ví phường vải nổi tiếng của Xứ Nghệ. Trong đó, những giai thoại về cậu Chiêu Bảy Nguyễn Du với hát ví phường vải Trường Lưu cho thấy sự hấp dẫn đặc biệt của vùng quê này.

Chuyện xưa kể lại rằng, thời gian Nguyễn Du sống ở Tiên Điền, lấy cớ đi lại thăm thông gia (Nguyễn Huy Tự là con rể của Nguyễn Khản - anh trai của Nguyễn Du), ông thường sang Trường Lưu để được hát phường vải với tư cách là một chàng trai trong cuộc. Sau những đêm hát say sưa, cậu Chiêu Bảy đã để thương để nhớ lại rằng:

Phiên nào chợ Vịnh ra trông

Mồng ba chẳng thấy lại hòng mười ba.

Đến khi Nguyễn Du ra làm quan cho triều đình nhà Nguyễn thì cô Tuyết, một trong những cô gái hát phường vải ấy trách:

Cái tình là cái chi chi

Anh làm tham tri em cũng biết rồi.

Lại có chuyện khác kể lại rằng, một đêm hát nọ, Chiêu Bảy gặp một cô gái tên Cúc, người đẹp, giọng hay, nhưng phải một nỗi quá thì mà vẫn chưa chồng. Chiêu Bảy biết thóp, liền hát chơi:

Trăm hoa đua nở về xuân

Cớ sao Cúc lại muộn mằn về thu?

Nhưng cô Cúc nào phải tay vừa, thoáng nghe đã hiểu ngay ý tứ của đối phương, bèn cất tiếng hát đáp lại:

Vì chưng tham chút nhụy vàng

Cho nên Cúc phải dềnh dàng về thu.

Cúc vốn là loài hoa nở về mùa thu, cúc nở về thu mới đang độ tươi đẹp, đúng kỳ chớ không phải muộn. Câu hỏi khôn và câu trả lời cũng thật khéo.

Nhiều câu hát ví phường vải Trường Lưu đã ra đời từ những cuộc gặp gỡ như thế và cũng từ mối duyên nợ ấy, 2 bài thơ “Thác lời gái phường vải” và “Thác lời trai phường nón” nổi tiếng cũng ra đời trong hoàn cảnh ấy.

Chuyện là, sau một đêm hát ví say sưa đến tảng sáng, bỗng dưng, một thời gian dài sau đó, Nguyễn Du không sang hát nữa, cô gái Trường Lưu đem lòng tương tư bỏ bê cả khung cửi, thấy vậy, ông nghè Nguyễn Huy Quýnh mới làm hộ bài thơ “Thác lời gái phường vải” để gửi tặng Nguyễn Du với những lời hờn trách khéo léo:

Tảng mai Hầu trở ra về

Hồn tương tư vẫn còn mê giấc nồng.

Cơi trầu chưa kịp tạ lòng,

Tỉnh ra đã cách non sông mấy vời.

….

Khi lên, đổ rối cho nhau,

Khi về, trút một gánh sầu về ngay.

Sau đó, Nguyễn Du đã viết bài “Thác lời trai phường nón” đáp lại để nói về tình cảm của mình đối với các cô gái Trường Lưu, trong đó có những câu thơ rất ý nhị:

.......

Bã trầu chưa quét, nào người tình chung?

Hồng Sơn cao ngất mấy trùng

Ðò Cài mấy trượng thì lòng bấy nhiêu

Làm chi cắc cớ lắm điều

Mới đêm hôm trước lại chiều hôm nay…

Những giai thoại về Nguyễn Du cho thấy sức hấp dẫn của hát ví làng Trường Lưu, đồng thời cũng khẳng định những giá trị văn hóa dân gian đặc sắc, phong cảnh và con người Trường Lưu cũng đã góp phần kiến tạo nên tâm hồn của Đại thi hào thời trai trẻ…

Theo Baohatinh.vn