TRUYỆN KIỀU: THUÝ VÂN ‘VÔ TÂM’ LẠI HƯỞNG SUNG SƯỚNG, ĐẠO LÝ ĐẰNG SAU LÀ GÌ?
Từ xưa đến nay, Thuý Vân vẫn mang tiếng là vô cảm vô tâm, thong dong lấy đi hạnh phúc của chị mình. Liệu rằng, đây có phải là một nỗi oan thiên cổ?
Đọc Truyện Kiều, người ta xót thương cho thân phận lênh đênh lạc loài của Thuý Kiều bao nhiêu, thì lại thầm oán trách Thuý Vân bấy nhiêu. Thuý Vân xuất hiện trong truyện không nhiều, nhưng ấn tượng mà nàng để lại trên bề mặt chỉ là sự vô cảm, vô tâm, dường như ngồi không hưởng phúc trên sự hy sinh của chị gái mình.
Sâu thẳm trong lòng Thuý Vân nghĩ gì, bản thân tác giả cũng không thể mười phần chắc chắn, nhưng cơ hồ có một nỗi tương giao với người đẹp phúc hậu này, nên hôm nay viết ra đôi lời để nhân sinh có một góc nhìn khác về nàng Vân.
Một Thuý Vân dường như “vô cảm”…
Thuý Vân xuất hiện lần đầu tiên trong Truyện Kiều dưới nét bút phác hoạ tài hoa của Nguyễn Du như sau:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Vẻ đoan trang, trang trọng, đầy đặn, phúc hậu của Thuý Vân không chỉ đáng mến, đáng yêu mà còn là dự cảm cho một tương lai viên mãn. Mãi cho tới khi hai chị em Kiều đi chơi trong tiết Thanh Minh, viếng mộ Đạm Tiên, Thuý Vân mới bắt đầu gây ấn tượng về sự “thờ ơ, vô tâm” của mình. Sau khi nghe câu chuyện về nàng danh kỹ xấu số một thời, Kiều than khóc thương tâm bao nhiêu, thì Vân lại bình thản bấy nhiêu:
Lại càng mê mẩn tâm thần,
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.
Lại càng ủ dột nét hoa,
Sầu tuôn đứt nối châu sa vắn dài.
Vân rằng: Chị cũng nực cười,
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa!
Sự “vô tâm” của Thuý Vân đạt đến đỉnh điểm trong cơn gia biến: Vương Ông bị mắc tội oan, hai cha con bị lũ vô lại đánh đập tàn nhẫn, Thuý Kiều vì để có tiền chuộc cha mà tự nguyện chịu gả bán mình cho một gã con buôn vô học; Vương Ông thương con muốn chết, Kiều phải can ngăn, để rồi đêm ấy Kiều khóc trắng đêm khi nghĩ mình sắp phải xa lìa người thân và phụ bạc lời thề với chàng Kim Trọng.
Thế mà, trong cái đêm bi thương ấy, Thuý Vân vẫn ngủ ngon như không có vấn đề gì:
…Nợ tình chưa trả cho ai,
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan!
Nỗi riêng riêng những bàng hoàng,
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn.
Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân,
Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han:
Cơ trời dâu bể đa đoan,
Một nhà để chị riêng oan một mình.
Tuy rằng Thuý Vân biết hỏi han chị đấy, biết thương chị đấy, nhưng người ta vẫn không thôi vặn hỏi, vì sao nàng có thể ngủ ngon, và nàng sao không làm gì mà để chị phải hy sinh cả đời mình như vậy? Có phải Thuý Vân đã quá ích kỷ rồi không?
Lại có một nghĩa cử vị tha…
Tuy nhiên, sau 15 năm Thuý Kiều lưu lạc, người ta gặp lại một Thuý Vân biết nghĩ cho người khác. Đó là khi nàng chủ động vun vén cho Kiều và Kim Trọng, mặc dù khi đó Vân đã là vợ của chàng bấy nhiêu năm:
Tàng tàng chén cúc dở say,
Đứng lên Vân mới giãi bày một hai.
Rằng: Trong tác hợp cơ trời.
Hai bên gặp gỡ một lời kết giao.
Gặp cơn bình địa ba đào,
Vậy đem duyên chị buộc vào cho em.
Cũng là phận cải duyên kim,
Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao?
hững là rày ước mai ao,
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình!
Bây giờ gương vỡ lại lành,
Khuôn thiêng lừa lọc đã đành có nơi.
Còn duyên may lại còn người,
Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa.
Quả mai ba bảy đương vừa,
Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì.
Kiều lấy Kim Trọng, Vân tự nguyện xuống làm vợ lẽ, dù rằng người làm vợ cả ấy là chị gái thân yêu của nàng, nhưng dù sao hành động này cũng cho thấy lòng vị tha, vô tư vô ngã của Thuý Vân.
Nghĩa cử ấy đáng cho ta tự hỏi, liệu có bao giờ mình đã hiểu nhầm Thuý Vân chưa?
Xưa nay ta vẫn cho rằng nàng là vô tâm vô cảm, nặng lời hơn là “giả ngốc hưởng thái bình”, nhưng Đạo Đức Kinh có viết: “Thiên đạo vô thân, thường dữ thiện nhân”, ý nói rằng Đạo Trời không thân ai (không thiên vị ai) mà thường gia ân cho người lương thiện. Kết thúc Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng viết:
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Thuý Kiều đủ sắc lẫn tài nhưng bất hạnh, còn Thuý Vân hạnh phúc như thế, hẳn rằng nàng phải có một cái tâm lành thiện. Nhưng lành thiện thế nào, trước những “chứng cứ” về sự vô tâm ở phía trên kia nhỉ?
Cái tâm lương thiện của Thuý Vân
Muốn biết thiện tâm của Thuý Vân ra sao, chúng ta thử xoay ngược trở lại xem cái tâm Thuý Kiều ‘bất thiện’ ở đâu mà đến độ chiêu mời khổ nạn. Kinh điển của Đạo gia là Thái Thượng Cảm Ứng Thiên có viết:
Họa phúc vô môn, duy nhân tự triệu,
Thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình.
Nghĩa là: Họa và phúc đều không có cửa mà là do lòng người tự gây. Làm ác thì gặp họa, làm lành thì được phúc, sự báo ứng như hình đi với bóng, không sai một mảy.
Luận về cái tâm chiêu mời tai hoạ của Thuý Kiều, Tam Hợp đạo cô nói như sau:
Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành,
Lại mang lấy một chữ tình,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Vậy nên những chốn thong dong,
Ở không yên ổn ngồi không vững vàng.
Ma đưa lối quỷ đem đường,
Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.
Nguyên nhân gốc rễ của tất cả những truân chuyên, đau khổ của Thuý Kiều chính là chữ “Tình” mà nàng ôm giữ vậy.
Ngay từ đầu Thuý Kiều đã vứt bỏ Lễ để “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”, sang uống rượu thề bồi cùng Kim Trọng, chỉ vì yêu chàng (Ái), muốn gần gũi chàng (Dục), sợ rằng “Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?” (Cụ). Phá bỏ chuẩn mực đạo đức mà Thần truyền cho con người để thoả mãn cái Tình của bản thân, tuy bề mặt là lãng mạn nồng say, nhưng dưới con mắt của Thần thì chính là ‘tà’ rồi đó.
Ngược lại, Thuý Vân từ đầu đến cuối thuận theo Đạo mà hành xử, ít bị chi phối dày vò bởi cảm xúc. Trong buổi đầu gặp gỡ với Kim Trọng, trước “Phong tư tài mạo tót vời” của chàng Kim, Thuý Kiều đã sớm động tình, còn Thuý Vân chẳng hề mảy may tơ tưởng.
Phải chăng nhờ có được cái tâm thản nhiên thuần khiết như vậy mà Thuý Vân được mới Trời cao ban phúc.
Nếu lý giải biểu hiện của Thuý Vân từ góc độ trên, chúng ta cũng dễ dàng hiểu được vì sao nàng không rơi nước mắt trước mộ Đạm Tiên. Con người ta luân hồi qua bao đời bao kiếp, đắng cay từng trải đã nhiều, kể sao xiết những nỗi niềm bi hoan ly hợp.
Trai gái phải lòng nhau, không lấy được nhau, nhan sắc phôi pha, bình rơi trâm gãy… nghìn năm nay cũng chẳng có gì là mới.
Như lời Tam Hợp đạo cô: “Tu là cỗi phúc tình là dây oan”. Thuý Vân tuy chẳng xuống tóc đi tu, nhưng dường như nàng là người “Không tu Đạo mà đã ở trong Đạo” vậy.