Hiển thị các bài đăng có nhãn Khoa học. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Khoa học. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2024

Ưu thế của những người nhỏ con

ƯU THẾ CỦA NHỮNG NGƯỜI NHỎ CON

Những người thấp nhỏ thường ít dễ bị tai nạn hơn những người cao to.

Hãy nghĩ về cơ thể như một chiếc xe hơi: Phần thân xác càng to thì càng khó chậm lại để tránh va chạm. Bên cạnh đó, đà càng lớn đồng nghĩa với những tác động lớn hơn trong va chạm.

Theo một ước tính, một người cao hơn 20% sẽ tạo ra động lực lớn gấp đôi trong một cú ngã.

Điều này có thể giải thích vì sao những người cao thường dễ bị thương nặng hơn. Một phụ nữ cao trên 1m70 dễ bị tổn thương hông hơn gấp đôi so với những phụ nữ chỉ cao 1m55.

Chiều cao khiêm tốn thường đồng nghĩa với tuổi thọ cao hơn.

Villagrande Strisaili ở Sardinia (Hòn đảo rộng 24.090 km2 với dân số hơn 1,6 triệu người, khu vực tự trị thuộc Ý) được biết đến là nơi có tỷ lệ dân sống trên 100 tuổi cao nhất châu Âu.

Mặc dù điều này là do nhiều yếu tố, trong đó có chế độ ăn uống vùng Địa Trung Hải và đời sống xã hội lành mạnh, một nguyên nhân khác là do có thể những người này khá thấp, với chiều cao trung bình của đàn ông chỉ khoảng 1m60 đối với thế hệ già nhất.

Những người to cao thường gặp nhiều bất lợi khi về già. Ví dụ, càng to lớn, bạn sẽ càng có nhiều tế bào trong cơ thể và vì vậy, tăng nguy cơ của sự biến dạng tế bào, từ đó đẫn đến ung thư.

Một cơ thể lớn hơn cũng đốt nhiều năng lượng hơn, làm tăng những sản phẩm phụ độc hại của quá trình tiêu thụ năng lượng và do đó chóng bị già yếu đi hơn.

Điều này có thể làm bạn giảm nhiều năm tuổi.

Một nghiên cứu khác đối với 1,3 triệu người Tây Ban Nha cho thấy nếu một người cao hơn chiều cao trung bình 1cm thì họ thường giảm tuổi thọ đi 0,7 năm.

 

Chủ Nhật, 21 tháng 1, 2024

Bạn uống nước với tình yêu, lòng biết ơn sẽ…

 


BẠN UỐNG NƯỚC VỚI TÌNH YÊU, LÒNG BIẾT ƠN SẼ CÓ THÊM SINH LỰC, NIỀM VUI ĐỂ SỐNG.

 

Trong Thí nghiệm nổi tiếng về sự liên kết giữa cảm xúc con người và đặc tính của nước, Tiến sĩ Masaru Emoto (Nhật) đã cho nước nghe nhạc và những thông điệp viết bằng chữ.

Kết quả thu được chứa đựng nhiều bất ngờ. Khi bị mắng là “đồ ngốc”, nước không tạo thành tinh thể mà nó tạo ra dạng hình ảnh dường như cho thấy một sự “tan vỡ”. 

 

 

Các nghiên cứu của Tiến sĩ Masaru Emoto và rất nhiều nhà khoa học trên thế giới đã chứng minh được rằng:

Nước có khả năng lưu giữ, tiếp nhận những ảnh hưởng từ bên ngoài, ghi nhớ tất cả những gì diễn ra xung quanh nó.

 

Nếu bạn uống nước với năng lượng của sự giận dữ, đau buồn, hổ thẹn – năng lượng này sẽ như một vòng lặp đi vào cơ thể bạn, gây ra những tác hại tới sức khoẻ của bạn – bởi đây là những cảm xúc với tần số năng lượng thấp.

Còn khi bạn uống nước với tình yêu, lòng biết ơn tới sự nuôi dưỡng, sự bao bọc của nước, năng lượng đấy cũng sẽ ảnh hưởng tới nguồn nước bạn uống, và bạn lại được thêm sinh lực, niềm vui để sống và cống hiến cho cuộc đời này.

 

“Thực sự là không có gì quan trọng hơn tình yêu và lòng biết ơn trên thế giới này. Bằng cách biểu lộ tình yêu và lòng biết ơn, nước ở quanh chúng ta và trong cơ thể chúng ta sẽ thay đổi rất đẹp. Chúng ta muốn áp dụng điều này trong cuộc sống hàng ngày, có phải vậy không?”, tiến sĩ Emoto chia sẻ.

 

Dù rằng bài viết: “Mặt tối của chủ nghĩa tích cực” của mình có bàn tới việc chấp nhận mọi cảm xúc như chính nó – là chìa khoá để chuyển hoá cảm xúc, nhưng chấp nhận không đồng nghĩa với việc bạn nên chầy ì trong mớ cảm xúc hỗn độn suốt và không thể làm được gì – vì điều này sẽ khiến bạn mãi mắc kẹt một chỗ.

Chính năng lượng của Tình yêu thương, sự biết ơn là một chìa khoá Chữa lành, giúp bạn chuyển hoá những cảm xúc trì trệ bên trong, để lại tìm thấy niềm vui sống, và tận hưởng sự sống đầy quý giá mà bạn được ban ân này.

 

BÀI TẬP CHÁNH NIỆM “LY NƯỚC BIẾT ƠN”

Bởi vậy, trước khi uống nước, hãy thực hiện một bài tập Chánh Niệm nho nhỏ này, để đảm bảo nguồn nước bạn uống vào là nguồn nước của năng lượng tình yêu, sự bao dung, nuôi dưỡng – vì điều đó sẽ tiếp thêm sinh lực cho bạn trong cuộc sống này, đẩy tần số năng lượng của bạn lên cao, và giúp bạn có thật nhiều niềm vui, động lực hơn để sống và lan toả tình yêu thương.

 

Bài tập như sau:

 

1. Đổ nước từ ấm vào cốc với sự quan sát sâu sắc: 

Tập trung quan sát hơi nước bốc lên, tiếng nước róc rách chảy vào ly. Cảm nhận sự bình yên từ việc rót nước, nghe tiếng nước chảy và cảm nhận sự ấm áp của hơi nước.

Buông bỏ suy nghĩ, chỉ tập trung tất cả các giác quan vào nước mà thôi.

 

2. Cầm ly nước đã được đổ đầy lên, niệm thầm lòng biết ơn với Nước.

Với mình, mình thường hay niệm rằng: “Nước thân yêu, con cảm ơn nước đã chảy vào cơ thể, nuôi dưỡng con, làm ấm cơ thể con, giúp con có đầy sinh lực để sống và làm việc. Con cảm ơn tình yêu thương của nước, sự nuôi dưỡng của nước.”

Bạn có thể tự tạo lời cảm ơn của riêng mình – để thể hiện lòng biết ơn và tình yêu tới nước – nguồn năng lượng luôn âm thầm nuôi dưỡng cơ thể bạn mỗi ngày. Ví dụ: “Con yêu nước, con biết ơn nước” – là đủ.

 

Hoặc bạn có thể đọc 4 câu chú Ho’oponopono (phương pháp Chữa lành của người Hawaii cổ):

“Con yêu nước, con xin lỗi nước, mong nước thứ lỗi cho con, con cảm ơn nước” (I love you, I am sorry, please forgive me, I thank you) – cũng giúp tăng tần số năng lượng của nguồn nước bạn uống, giúp bạn gột sạch những mệt mỏi, nặng nề ra khỏi cơ thể.

 

3. Uống nước với Chánh niệm

Khi uống nước, bạn hãy cảm nhận dòng nước từ từ chảy vào khoang miệng, cuống họng, rồi từ từ đi xuống bụng bạn. Cảm nhận dòng nước chảy như tình yêu của nước dành cho bạn đang bao bọc khắp cơ thể bạn – với tình yêu, sự ngọt ngào, bao dung như của Mẹ Cha, của Đất Mẹ Gaia.

Cảm nhận mọi độc hại được thanh tẩy, và giờ đây bạn ngập tràn trong tình yêu của nước, lại được nạp đầy năng lượng để sống và làm việc.

Ngồi xuống một lúc, để hơi ấm của nước lan toả khắp cơ thể bạn.

 

TRẢI NGHIỆM CỦA MÌNH

Đây là bài tập mình thực hiện mỗi sáng, mỗi chiều khi thức dậy, khi mình thấy uể oải. Và sự thực, mỗi khi uống “ly nước của tình yêu và lòng biết ơn” xong, mình luôn thấy cơ thể được nạp đầy năng lượng tích cực, nhiều niềm vui hơn, có nhiều sức lực để làm việc và cống hiến hơn.

 

Có những ngày năng lượng của mình xuống thấp, mình sẽ thực hiện bài tập “ly nước biết ơn” này, để năng lượng được nạp lên. Sau đó, mình sẽ bật nhạc lên để nhảy múa một lúc, bởi việc di chuyển cơ thể, giãn cơ, nhảy múa cũng rất tốt cho việc làm tăng tần số năng lượng, chuyển hoá những năng lượng thấp để bạn có thêm sức lực làm việc, tận hưởng cuộc sống hơn.

 

Ngoài việc uống nước, bạn cũng hãy thực hiện bài tập “Chánh niệm, Biết ơn” trên đối với bất cứ loại thực phẩm nào bạn tiếp thu vào cơ thể nhé. Đấy là lý do tại sao nhiều tôn giáo trên thế giới yêu cầu phải Cầu nguyện trước khi ăn, bởi chính việc cầu nguyện, thể hiện lòng biết ơn thôi cũng thay đổi tần số năng lượng của đồ ăn bạn tiếp thu vào cơ thể, và thay đổi cả một ngày, một đời của bạn.

 

Quỳnh Anh – Mystic Cat Lady

 

* Bạn nói bằng ngôn ngữ gì nước cũng biết được hết, chính đó là tần số rung động mới là điều quyết định.

 

 

Thứ Bảy, 16 tháng 12, 2023

Ông tổ của ngành di truyền học

 

ÔNG TỔ CỦA NGÀNH DI TRUYỀN HỌC

 

Nhân loại đã và đang chứng kiến những thành tựu to lớn của sinh học nói chung và di truyền học nói riêng. Có lẽ, bất kỳ ai quan tâm đến sinh học hay từng được học thời phổ thông đều nhớ đến Gregor Johann Mendel, ông tổ của ngành di truyền học. Quy luật di truyền của ông đã và đang là nền tảng cho công nghệ sinh học ngày nay.

 

Vào thời của ông, người ta chưa nhận thức được tầm quan trọng và giá trị to lớn mà những nghiên cứu của Mendel mang lại cho nhân loại. Trong con mắt mọi người thời đó, ông chỉ là một tu sĩ vô danh, một người làm khoa học nghiệp dư.

Nhưng những đánh giá chưa đúng của giới khoa học khi đó không khiến Mendel dừng công việc nghiên cứu. Ông vẫn lặng thầm tìm tòi, khám phá như thể một nhu cầu tự thân vậy.

 

Năm 18 tuổi, Mendel tốt nghiệp trung học vào loại xuất sắc và được cử đi học triết học. 3 năm sau, ông phải bỏ dở việc học vì gia đình quá nghèo và xin vào làm ở Tu viện Augustinian tại thành phố Brunn (nay là Brno, Cộng hòa Séc).

 

Năm 1847, Mendel được Nhà thờ phong làm giáo sĩ và 2 năm sau, ông được cử dạy môn Toán và tiếng Hy Lạp tại tu viện.

 

Năm 1851, ông trở lại học Toán, Lý, Hóa, Động vật học và Thực vật học tại Trường Đại học Tổng hợp Viên. Năm 1853, sau khi tốt nghiệp, Mendel quay trở về sống trong tu viện Augustinian và dạy học ở Trường Cao đẳng Thực hành của thành phố.

 

Với vốn kiến thức vững vàng về khoa học, Mendel đã chuyên tâm vào việc nghiên cứu. Lĩnh vực mà ông đặc biệt quan tâm và dành nhiều thời gian nghiên cứu là khoa học sinh vật.

 

Năm 1856, ông bắt đầu làm những thí nghiệm công phu trên đậu Hà Lan. Mendel nhận thấy cây đậu Hà Lan có cấu tạo hoa đặc biệt, che chở cho phấn các nhị không vương vãi ra ngoài. Do đó, khi cần để hoa tự thụ phấn hay lấy phấn hoa này thụ phấn cho hoa khác đều rất dễ dàng và bảo đảm, cho biết chính xác cây bố, cây mẹ.

 

Trong suốt 8 năm (1856-1863), Mendel đã tiến hành thực nghiệm trên khoảng 37.000 cây đậu và 300.000 hạt đậu. Ông đã chứng minh sự di truyền do các nhân tố di truyền (ngày nay gọi là gene).

 

Năm 1865, Mendel mang kết quả này trình bày tại Hội Khoa học Tự nhiên thành phố Brunn và một năm sau, các kết quả về di truyền này được công bố trên tập san của Hội dưới tiêu đề “Một số thực nghiệm lai thực vật”.

Nhưng khi đó, mọi người đều cho rằng, các giả thuyết về di truyền đương thời thì vô cùng phức tạp, trong khi thí nghiệm của Mendel lại “quá giản dị”. Do vậy, công trình nghiên cứu của ông bị chìm trong quên lãng.

Mặc dù vậy, ông vẫn miệt mài vừa dạy học vừa truyền đạo và tiếp tục làm thực nghiệm trong vườn của tu viện.

 

Năm 1868, Mendel được phong chức Tổng Giám mục và được cử làm Giám đốc Tu viện vào năm 1879. Ông còn là người sáng lập Hội Nghiên cứu Thiên nhiên và Hội Khí tượng học của thành phố Brunn.

 

Ngày 6/1/1884, Mendel qua đời tại thành phố Brno, Cộng hòa Séc, thọ 62 tuổi. Mãi 6 năm sau khi Mendel qua đời, các nghiên cứu quý giá của ông mới được nhân loại biết tới, thông qua các nghiên cứu độc lập nhưng cùng một lúc vào năm 1900 của 3 nhà khoa học ở 3 nước khác nhau là: Hugo Marie de Vries ở Hà Lan, Carl Correns ở Đức và Erich Tschermark của Áo.

 

Tuy công trình nghiên cứu về di truyền học của Mendel được công nhận khá muộn màng, nhưng ngày nay các nhà khoa học vẫn xem năm 1900 là “mốc lịch sử đánh dấu sự ra đời của ngành di truyền học” và Mendel vẫn là “Ông tổ của ngành di truyền học”.

 

Hơn 1 thế kỷ đã trôi qua, di truyền học đã có một bước tiến nổi bật, giúp cho sinh học trở thành một trong mũi nhọn của khoa học hiện đại cùng với sự phát triển mạnh mẽ của Công nghệ di truyền, Công nghệ tế bào, Công nghệ vi sinh vật, Công nghệ enzym/protein.

 

Đó là kỹ thuật nhân bản vô tính để tạo ra cừu Dolly của Wilmut (năm 1997), thành công của Đề án giải mã bộ gene người (năm 2001) và gần đây nhất là việc ứng dụng các tế bào gốc để mong muốn điều trị nhiều bệnh lý hiểm nghèo.

 

Tất cả đều khởi nguồn từ các thí nghiệm lai tạo đậu Hà Lan cách đây gần 160 năm của Gregor Mendel.

 

Ảnh: "Cha đẻ" ngành di truyền học Gregor Mendel