Thứ Hai, 3 tháng 4, 2023

Những con ma đói


NHỮNG CON MA ĐÓI

Trích từ pháp thoại của Sư Ông Làng Mai ngày 14/4/2003.

Tôi có biết một anh chàng họa sĩ người Huế sống ở Hoa Kỳ. Ngày xưa anh đã rời quê hương một cách rất khó khăn. Anh ta xin làm bồi trên một chiếc tàu thủy để có thể đi qua một nước Tây phương và nghĩ rằng mình sẽ có tương lai ở đó.

 

Vào đêm anh từ giã bà mẹ, hai mẹ con khóc. Bà cụ là một phụ nữ Huế, không biết đọc, không biết viết, nhưng bà đã dặn đứa con trai như thế này: “Này con, khi mà con sang bên nớ, mỗi khi thấy nhớ mẹ nhiều lắm, con đưa bàn tay lên, con nhìn bàn tay con cho kỹ, con sẽ thấy bớt nhớ mẹ”.

 

Trong suốt mấy mươi năm ở bên Mỹ, không có cơ hội trở về Việt Nam, anh ta thường đưa bàn tay lên để nhìn ngắm theo lời bà mẹ căn dặn. Anh cảm thấy được an ủi rất nhiều. Cố nhiên bà mẹ Việt Nam đó chưa bao giờ học triết học, chưa từng học khoa học nhưng bà có tuệ giác của cha ông để lại, bà biết rằng: Mình có mặt trong bàn tay của đứa con trai mình.

 

Chúng ta biết rằng tất cả những gia tài di truyền của tổ tiên mà ông bà cha mẹ chúng ta đã tiếp nhận đang có mặt đích thực trong từng tế bào của cơ thể mình. Đó là một sự thật, rất khoa học.

Tất cả những kinh nghiệm, trí tuệ, hạnh phúc của tổ tiên, của ông bà, của cha mẹ đã được trao truyền cho chúng ta. Tất cả những khổ đau, những khó khăn, những bức xúc của tổ tiên, ông bà, cha mẹ cũng đã trao truyền cho chúng ta.

 

Tổ tiên chúng ta, kể cả thế hệ tổ tiên trẻ nhất là cha mẹ đang có mặt một cách đích thực trong từng tế bào của cơ thể. Bà mẹ kia tuy không biết triết học, không biết khoa học, nhưng đã đạt được tuệ giác đó: “Này con, mỗi khi con nhớ mẹ, con chỉ cần đưa tay lên nhìn thì con sẽ thấy đỡ nhớ”.

 

Bà không nói rõ nhưng lời dặn dò đó đã ẩn chứa ý nghĩa: Mẹ đang có mặt trong từng tế bào cơ thể của con. Sự thật khoa học đó hiện bây giờ đã được mọi người chấp nhận.

Chúng ta thường hay nói với nhau: “Con cái ở đâu thì ông bà ở đó”. Điều này cũng là một sự thật rất khoa học. Ông bà đi theo con cái, không phải là đi sau lưng hoặc bên phải hoặc bên trái hoặc trước mặt mà ông bà đi theo ngay trong từng tế bào của cơ thể của mình.

 

Chúng ta đi đâu là chúng ta đem tổ tiên, ông bà đi theo đó. Điều đó có thể hiểu một cách rất là khoa học. Chúng ta đi Mỹ thì tổ tiên đi Mỹ. Chúng ta đi Hòa Lan thì tổ tiên đi Hòa Lan. Chúng ta đi Úc thì tổ tiên đi Úc. Chúng ta lên Thiên Đường thì tổ tiên sẽ lên Thiên Đường. Chúng ta xuống địa ngục, tổ tiên cũng sẽ xuống địa ngục với chúng ta.

 

Xã hội của chúng ta trong cuối thế kỷ thứ hai mươi và đầu thế kỷ hai mươi mốt, con người có cảm tưởng là mình mất gốc, mình cảm thấy bơ vơ, lạc loài, mình không thấy được sự liên hệ giữa mình và tổ tiên, ông bà cha mẹ mình.

 

Có những người trai trẻ lớn lên giận cha, giận mẹ, phủ nhận văn hóa của mình, phủ nhận dân tộc, đất nước của mình vì họ đã gánh chịu quá nhiều khổ đau. Có những thanh niên Tây phương khi giận cha tới mức có thể tuyên bố như thế này: Ông đó hả! Tôi không có muốn có gì liên hệ tới ông đó hết!

Khi mình cảm thấy rằng những đau khổ của mình là do cha mẹ mình gây ra thì mình thù hận cha mẹ và không muốn có liên hệ gì tới cha mẹ nữa. Đó là những con người phóng thể, những con người không có gốc rễ. Khi chúng ta không có gốc rễ, chúng ta không thể nào có hạnh phúc được.

 

Thời đại chúng ta đã chế tạo ra không biết bao nhiêu con ma đói. Những con ma đói bằng xương bằng thịt đàng hoàng. Nó đi trong xã hội, đi trong cuộc đời, đi kiếm một chút hiểu và một chút thương, đi kiếm một nơi nương tựa nhưng hoàn toàn bơ vơ. Chúng ta chỉ cần bỏ một chút thì giờ nhìn quanh là nhận diện ra được những con ma đói đó.

Đói ở đây không phải đói cơm hay đói áo mà là đói hiểu biết và đói tình thương. Cái hiểu đó, cái thương đó gia đình đã không cung cấp được cho họ.

 

Họ không tin vào hạnh phúc gia đình. Họ nghĩ rằng hạnh phúc gia đình là một ảo tưởng, là một cái không bao giờ có. Từ khi sinh ra, họ chưa bao giờ thấy ở trong gia đình có hạnh phúc. Cha làm khổ mẹ, mẹ làm khổ cha, cha đay nghiến mẹ, mẹ đay nghiến cha.

 

Tất cả những cái đó đã gây ra những vết thương rất sâu đậm nơi người con trai, người con gái. Khi giữa cha mẹ không có truyền thông, giữa cha con không có truyền thông, cha không nhìn mặt con được, con không nói chuyện với cha được, làm sao có hạnh phúc?

Gia đình không phải là chỗ người trẻ muốn trở về. Người trẻ đi tìm quên lãng ở những lĩnh vực khác. Người trẻ sa vào hầm hố của tội ác, tội phạm, ma túy, trác táng.

 

Ngày xưa chúng ta có một gia đình vững chãi hơn nhiều. Khi có những khó khăn ở trong gia đình, mình có thể chạy sang nhà ông chú, bà thím, ông bác để tỵ nạn, sau đó chúng ta có thể trở về nhà được. Nhưng bây giờ gia đình trở thành nhỏ xíu, mỗi gia đình sống ở một căn hộ nhỏ hẹp trong chung cư.

Những gia đình đó được gọi là gia đình hạt nhân (nuclear family) rất là nhỏ, chỉ có hai vợ chồng, một đứa con hoặc hai đứa con.

 

Khi mình cảm thấy không nương tựa được vào gia đình, không có gốc rễ trong gia đình, không có gốc rễ trong truyền thống tâm linh, không có gốc rễ trong xã hội và văn hóa của đất nước thì mình trở thành một con ma đói.

 

Xã hội Tây phương hiện giờ sản xuất rất nhiều con ma đói. Trung tâm tu học của chúng tôi ở tại Pháp quốc và Mỹ quốc luôn luôn tiếp nhận những con ma đói. Không khó khăn gì hết, mình chỉ nhìn họ một phút đồng hồ là biết rằng đó có phải đích thực là ma đói hay không. Nhìn cách họ đi, cách họ ngồi, cách họ nhìn, cách họ nói chuyện là mình có thể biết được họ có phải là ma đói hay không. Họ đói tình thương, đói hiểu biết và họ hoàn toàn bơ vơ.

 

Làng Mai > Tàng kinh các > Những con ma đói

Chủ Nhật, 2 tháng 4, 2023

Chủ nghĩa hành vi (Behaviorism)

 

CHỦ NGHĨA HÀNH VI (BEHAVIORISM)

Những người theo chủ nghĩa hành vi nghiêm ngặt tin rằng bất kỳ ai trên thế giới, bất kể khuynh hướng tự nhiên, đặc điểm tinh thần hay suy nghĩ bên trong của họ như thế nào, đều có thể học cách đạt được khả năng thực hiện bất kỳ loại nhiệm vụ nào. Điều đó chỉ yêu cầu môi trường xung quanh phù hợp.

 

Chủ nghĩa hành vi lần đầu tiên được giới thiệu trong bài báo kinh điển năm 1913 của John B. Watson, Nói một cách đơn giản, những người theo chủ nghĩa hành vi nhất quyết tin rằng tất cả các hành vi đều là kết quả của kinh nghiệm. Bất kỳ người nào, bất kể nền tảng của họ, đều có thể được huấn luyện để hành động theo một cách cụ thể nếu được tạo điều kiện phù hợp.

 

Chủ nghĩa hành vi là trường phái tư tưởng nổi tiếng nhất trong tâm lý học từ khoảng năm 1920 đến đầu những năm 1950. Một số người tin rằng chủ nghĩa hành vi trở nên phổ biến vì nó tìm cách hợp pháp hóa việc nghiên cứu tâm lý con người như một ngành khoa học khách quan và có thể đo lường được.

 

Có hai loại chủ nghĩa hành vi chính được sử dụng để mô tả cách hành vi được hình thành.

Chủ nghĩa hành vi phương pháp luận (Methodological Behaviorism) chỉ ra rằng hành vi có thể quan sát được nên được nghiên cứu một cách khoa học và rằng các trạng thái tinh thần và quá trình tinh thần không bổ sung cho sự hiểu biết về hành vi. Chủ nghĩa hành vi phương pháp luận phù hợp với hệ tư tưởng và cách tiếp cận của Watson.

Chủ nghĩa hành vi cấp tiến (Radical Behaviorism) dựa trên học thuyết rằng hành vi có thể được mô tả bằng cách tiếp nhận bối cảnh trong quá khứ và hiện tại của ai đó và các yếu tố củng cố nó, qua đó ảnh hưởng hành vi theo hướng tích cực hoặc tiêu cực.

Thông qua cách tiếp cận hành vi của mình, nhà tâm lý học B.F. Skinner đã hình thành thuyết hành vi cấp tiến.

Điều kiện hóa cổ điển (Classical Conditioning) là một kỹ thuật huấn luyện hành vi thường được sử dụng ở người.

Trong các thí nghiệm của nhà nghiên cứu sinh lý học Ivan Pavlov, những con chó ban đầu phản ứng khi nhìn thấy thức ăn (khiến tuyến nước bọt phản ứng như một phản xạ không tự nguyện) cùng với tiếng rung chuông, sau đó là nhìn thấy một trợ lý phòng thí nghiệm mặc áo khoác trắng.

Cuối cùng, chỉ bản thân chiếc áo khoác phòng thí nghiệm đã gây ra phản ứng tiết nước bọt của chó.

 

Các yếu tố như mức độ quan trọng của kích thích và thời điểm xuất hiện kích thích có thể đóng một vai trò trong tốc độ bắt cặp nhanh hay chậm.

Khi một liên kết biến mất, điều này được gọi là tuyệt chủng. Nó làm cho hành vi giảm bớt hoặc biến mất.

Các yếu tố như cường độ của phản ứng ban đầu có thể ảnh hưởng đến tốc độ xảy ra sự tuyệt chủng. Ví dụ, một phản ứng đã được điều kiện hóa càng lâu thì càng mất nhiều thời gian để nó bị biến mất.

 

Hậu quả ảnh hưởng đến học tập

Nhà nghiên cứu hành vi B.F. Skinner đã mô tả điều kiện hóa từ kết quả là quá trình học tập có thể xảy ra thông qua củng cố và trừng phạt.

Ví dụ, nếu cha mẹ thường xuyên khen ngợi con mình mỗi khi chúng nhặt đồ chơi lên, hành vi mong muốn sẽ được củng cố một cách nhất quán và đứa trẻ sẽ có nhiều khả năng dọn dẹp đống lộn xộn hơn.

 

Quá trình hình thành điều kiện hóa từ kết quả có vẻ đơn giản - chỉ cần quan sát xu hướng hành vi, sau đó đưa ra phần thưởng hoặc hình phạt.

Tuy nhiên, Skinner đã phát hiện ra rằng thời điểm của những phần thưởng và hình phạt này đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định tốc độ hình thành một kiểu hành vi mới và sức mạnh của phản ứng phù hợp.

Điều này làm cho tần suất củng cố trở nên quan trọng trong việc hình thành hành vi.

 

  • Củng cố liên tục liên quan đến việc thưởng cho mọi trường hợp đơn lẻ của một hành vi. Nó thường được sử dụng khi bắt đầu quy trình điều kiện hóa từ kết quả. Sau đó, khi hành vi được học, lịch trình có thể chuyển sang một phần củng cố.
  • Củng cố một phần liên quan đến việc đưa ra phần thưởng sau một số phản hồi hoặc sau một khoảng thời gian đã trôi qua. Đôi khi, củng cố một phần xảy ra theo một lịch trình nhất quán hoặc cố định. Trong các trường hợp khác, số lượng phản hồi hoặc lượng thời gian thay đổi và không thể đoán trước phải xảy ra trước khi phần củng cố được đưa ra.

Các ứng dụng của chủ nghĩa hành vi

Các nhà hành vi học cho rằng chủ nghĩa hành vi có một số ứng dụng khác nhau, bao gồm một số cách sử dụng liên quan đến giáo dục và sức khỏe tâm thần.

 

- Giáo dục

Chủ nghĩa hành vi có thể được sử dụng để giúp học sinh học tập, chẳng hạn như bằng cách tác động đến thiết kế bài giảng.

Ví dụ, một số giáo viên sử dụng các biện pháp khuyến khích nhất quán để giúp học sinh học tập (điều kiện hóa từ kết quả) trong khi những giáo viên khác tập trung nhiều hơn vào việc tạo ra một môi trường kích thích để thu hút nhiều học sinh tham gia. (điều kiện hóa cổ điển).

 

- Nghiên cứu

Thế mạnh đáng chú ý nhất của tâm lý học hành vi là nó có thể quan sát và đánh giá các hành vi. Là một môn học dựa trên các hành vi có thể quan sát được, việc thu thập dữ liệu định lượng và tiến hành nghiên cứu thường dễ dàng hơn.

 

- Sức khỏe tinh thần

Liệu pháp hành vi được sinh ra từ chủ nghĩa hành vi và ban đầu được sử dụng trong điều trị bệnh tự kỷ và tâm thần phân liệt. Loại trị liệu này liên quan đến việc giúp mọi người thay đổi những suy nghĩ và hành vi có vấn đề, từ đó cải thiện sức khỏe tâm thần.

 

Có một số kỹ thuật trị liệu bắt nguồn từ tâm lý học hành vi. Mặc dù tâm lý học hành vi chiếm nhiều vị trí nền tảng hơn sau năm 1950, nhưng các nguyên tắc của nó vẫn còn quan trọng cho đến ngày nay.

 

Tóm lại, chủ nghĩa hành vi vừa là một cách tiếp cận lý thuyết vừa là một lĩnh vực nghiên cứu trong tâm lý học. Nó nhấn mạnh nghiên cứu khoa học về hành vi quan sát được, trái ngược với trạng thái tinh thần chủ quan.

Chủ nghĩa hành vi đã giúp chúng ta có được cái nhìn sâu sắc về các quá trình học tập, bao gồm lý thuyết học tập xã hội và điều kiện hóa, định hình và học tập xã hội.

 

Các nguyên tắc của nó được sử dụng rộng rãi trong các ứng dụng lâm sàng ngày nay với sự phát triển của các liệu pháp hành vi nhận thức.


Nguồn: https://www.verywellmind.com/behavioral-psychology-4157133