Vua Nghiêu, vua
Thuấn là hai bậc thánh quân thời thượng cổ của Trung Hoa. Vua Nghiêu gọi là Đào
Đường Thị, vua Thuấn gọi là Hữu Ngu Thị. Vua Thuấn họ Diêu, tên là Trọng Hoa là
người Ký Châu thời thượng cổ của đất Sơn Tây. Vua sinh ra đã có tướng mạo đặc
biệt, mỗi con mắt có hai con ngươi (đồng tử); Thuấn rất hiếu thảo với cha mẹ,
lòng hiếu thảo ấy làm cảm động đến trời xanh, khi Thuấn cày ruộng ở Lịch Sơn,
từng cảm hóa được loài voi đến xới đất dùm, chim chóc bay về giúp nhổ cỏ.
Hoàn cảnh gia đình của Ngu Thuấn thật phức tạp. Cha tên là Cổ Tẩu,
tuy có mắt mà không biết chuyện, không biết phân biệt trắng đen phải quấy, xử
lý công việc thì ương ngạnh tự tung tự tác, ngoan cố không chịu nghe điều lẽ
phải. Mẹ kế của Thuấn là một người điêu ngoa. chỉ thích dối gạt, thường ưa nói
dối, gây chuyện thị phi.
Người mẹ kế này có
đứa con trai tên là Tượng. Đứa em trai này không phải em cùng cha với Thuấn, là
đứa con riêng của mẹ kế mang về. Do đó, Tượng không có mối liên hệ tình thân gì
với Thuấn. Nhưng Thuấn vẫn nhận Tượng xem như em trai, đứa em trai này tính tình
rất ngạo mạn.
Lúc Thuấn chưa làm vua, từng chịu nhiều khổ cực. Những nỗi khổ này
do ai mang lại cho Thuấn? Đó chính là người cha. Cha của Thuấn đem đến cho con
mình nhiều nỗi khổ. Bởi vì Cổ Tẩu thương Tượng, đứa con của người vợ kế. Vì thế
mà bọn họ ba người, thường rắt tâm làm hại Thuấn. Thế nhưng, lần nào gặp nạn
Thuấn cũng đều được bình an, tránh được ách nạn. Cũng như Thuấn có chút lỗi lầm
nho nhỏ nào, thì cả ba cùng hành hạ Thuấn; thế nhưng Thuấn vẫn một lòng rất
hiếu thuận với cha và người mẹ kế, yêu thương em trai. Hằng ngày Thuấn đều
siêng năng cần mẫn làm việc, không dám biếng lười, không hề có chút sai trái
trong đạo làm con và tình cảm anh em, nên đến năm hai mươi tuổi, khắp nơi đều
nghe danh lòng hiếu thảo của Thuấn.
Năm Thuấn ba mươi tuổi, vua Nghiêu bấy giờ tuổi cũng đã già, nghe
được tiếng đồn về đức hạnh của Thuấn, lại thêm được chư hầu khắp nơi tiến cử,
vua Nghiêu bèn đồng ý cho Thuấn giúp vua xử lý việc triều chính. Vua Nghiêu đem
hai con gái của mình (Nga Hoàng và Nữ Anh) gã cho Thuấn làm vợ, cũng là để tiện
theo dõi đức độ trong gia đình của Thuấn. Kinh Dịch có câu “Nhị nữ đồng cư nhi
kỳ chí bất đồng” (Hai người phụ nữ ở cùng một nhà nhưng không cùng một chí
hướng). Ở đây ý nói, hai người vợ cùng ở một nhà nhưng khó mà hòa hợp với nhau.
Vua Nghiêu sở dĩ cố tình làm thế, không ngoài việc muốn thử xem Thuấn có tài
‘Tề gia’ hay không, để xử lý tốt đẹp mối quan hệ giữa hai người vợ. Kết quả là
cả hai đều biết tỏ ra cung kính và chăm chỉ lo lắng việc nhà, không dám lấy
danh phận là con gái vua mà khinh rẻ họ hàng của Thuấn, cả hai đều rất có đức
của một người nữ. Vua Nghiêu còn sai chín người con trai đến bái Thuấn làm thầy
để học những đạo đức và tư tưởng của Thuấn, kết quả là chín người con này ngày
càng nhân hậu lễ phép.
Vua Nghiêu từng ban cho Thuấn một tấm Hy Y (loại áo được may từ vải
dệt bằng cây Cát) và cây đàn Ngũ huyền (Ngũ huyền cầm: một loại đàn năm dây),
rồi còn xây cho một kho thóc, ban thêm cả trâu dê. Thế nhưng, ba người của Cổ
Tẩu vẫn muốn giết Thuấn. Có một dịp họ kêu Thuấn đi sửa kho thóc, đợi Thuấn leo
lên đỉnh kho, Tượng liền len lén đem dấu cái thang, Cổ Tẩu thì ở dưới đốt lửa
thiêu hủy kho thóc. Họ cứ nghĩ sẽ đốt sống được Thuấn. Nhưng nhờ Thuấn giữ trọn
lòng hiếu đạo, nên có căn lành lớn, dù không có thần thông, nhưng cũng rất
thông minh. Lúc leo lên đỉnh nhà kho để sửa, Thuấn mang theo bên mình hai cái
nón lá (Loại nón lá có chóp thời xưa của Trung Hoa ), lẽ ra đội một cái trên
đầu cũng đủ rồi. Nhưng Thuấn định là nếu rớt cái này, thì còn cái kia để đội.
Lúc Thuấn thấy lửa bốc cháy từ bên dưới kho thóc, lập tức hai tay cầm hai cái
nón, giống như dang hai cánh, từ trên đỉnh kho thóc nhảy vọt xuống đất giống
như nhảy dù, an toàn không hề bị thương tích gì cả. Rồi Thuấn chạy về nhà gõ
cửa, làm cho người cha, mẹ kế và Tượng đứng nhìn chết trân, họ ngạc nhiên:
“Không phải hắn bị lửa thiêu rồi sao? Đây có phải hồn nó về không!” Thuấn trả
lời: “Con không phải là ma đâu, cả nhà đừng sợ.” Thế rồi họ đành phải mở của
cho Thuấn vào nhà.
Cho vào nhà rồi nhưng vẫn mang tâm giết hại Thuấn. Giết thế nào
đây? Bọn họ lại bàn với nhau, dùng lửa thiêu không chết, thì dùng nước dìm nó
chết! Bấy giờ, do trong nhà không có đủ nước dùng, liền gọi Thuấn xuống vét
giếng. Nghe theo lời cha, Thuấn leo xuống vét giếng, dưới giếng có nhiều bùn,
phải móc bùn lên thì mới có nước. Thuấn vừa leo xuống giếng, người cha đứng
trên liền thả xuống một tảng đá lớn, cứ nghĩ tảng đá to này nhất định sẽ đè
Thuấn chết.
Ai ngờ được rằng,
Thuấn là người có thiên tướng, phúc mạng lớn, nên cũng có chư thần theo hộ vệ.
Trong giếng đó có một con rồng, con rồng này khi thấy tảng đá lớn từ trên rơi
xuống liền lấy vuốt rồng chụp lại, rồi dùng đuôi của nó khoét một cái hang bên
cạnh đáy giếng. Thuấn thấy được cái hang này liền theo đường hang đó mà thoát
ra ngoài, thế là Thuấn không bị đá đè chết.
Sau khi ba người bọn họ quẳng đá xuống giếng, lại dùng một tảng đá
đậy kín bên trên miệng giếng, cho rằng lần này thì Thuấn nhất định sẽ chết
không thể thoát được. Thế là họ mở ngay cuộc họp gia đình để phân chia tài sản
của Thuấn. Tượng nói với bố mẹ rằng: “Lần này lập mưu sát hại Thuấn đều là công
lao của con, bây giờ trâu dê, kho đụn đều dành cho bố mẹ, mọi thứ tài sản của
Thuấn đều dành cho bố mẹ, con không cần những thứ ấy. Thứ con cần là gì? Con
chỉ cần mấy thứ binh khí, cây đàn Ngũ huyền, cây cung có điêu khắc và cả hai
người vợ của Thuấn đều thuộc về con”. Cổ Tẩu nói: “Được, được! Con muốn gì thì
cho thứ ấy.”
Đang khi Tượng đang hí hững chạy đến nhà của người anh để tiếp nhận
hai người chị dâu, hắn vừa bước vào nhà thì thấy Thuấn vẫn bình yên ngồi trên
giường gảy đàn! Ông Đại Thuấn lúc này, chẳng hề có chút giận hờn, chẳng có chút
gì sân hận, Thuấn không hề nóng giận lên mà nói: “Mấy người trước lấy lửa đốt
tôi, rồi đợi tôi xuống giếng còn ném đá lấp giếng lại. A! Muốn hại chết tôi
sao.” Thuấn vẫn thế, với vẽ mặt đầy hoan hỷ, thấy em trai đến, còn rất nồng hậu
đón tiếp em và ôn tồn hỏi:
“Em tìm anh có việc
gì không?” Tượng rất lúng túng, tiến thoái lưỡng nan, nói: “Em cảm thấy buồn và
bức rức, vì nghĩ đến chuyện đã xãy ra đối với anh.” Thực sự thì trong lòng hắn
đang muốn chiếm hữu hai người chị dâu về làm vợ của hắn.
Thuấn có tính rất nhân từ và hiếu thảo, cảm động trời đất; thuở nhỏ
thân phận thấp hèn, Thuấn từng phải làm qua nhiều công việc. Khi Thuấn đến làm
ruộng ở Lịch Sơn, dân chúng ở Lịch Sơn đều nhường đất cho Thuấn, khi Thuấn bắt
cá ở Lôi Trạch, dân chúng ở Lôi Trạch đều nhường Thuấn chỗ bắt cá; lúc Thuấn
nắn đồ gốm bên sông Hà Tân, gốm Hà Tân rất đẹp. Trước thời Khổng Tử, Thuấn được
xem là người uyên bác, nhiều tài năng nhất, nơi nào Thuấn đến, người dân đều
nhờ nghe tiếng tốt của Thuấn mà được cảm hóa, lủ lượt kéo nhau về cùng ở cùng
một chỗ, nên trong vòng một năm nơi ấy đã thành một tụ lạc, sau hai năm trở
thành một thị trấn, sau ba năm thì biến thành một khu đô thị đông đúc. Lắm lần
vua Nghiêu giao cho Thuấn nhiều trọng trách để thử tài năng của Thuấn, Thuấn
đều hoàn thành tốt công việc không chút sai sót, đủ thấy rằng Thuấn là một
người uyên bác có nhiều năng lực.
Vua Nghiêu lại sai Thuấn đến một vùng hiểm địa sông núi hoang sơ,
kết quả Thuấn không hề bị lạc lối trong trận mưa sa gió táp ở núi sâu rừng
hiểm, mà còn trở về trong sự bình an. Vua Nghiêu nhận ra được rằng, đức hạnh và
tài năng của Thuấn đã đủ để vua truyền giao ngôi vị, nên sau 30 năm Thuấn giúp
vua lo việc nước, vua Nghiêu đã đem ngôi vị Thiên tử nhường lại cho Thuấn. ‘Thiện’
là một nghi lễ tế cáo trời đất, trong buổi lễ này vua Nghiêu đã công cáo đề bạt
với trời, thần rằng Thuấn sẽ là người kế vị, có quyền nắm giữ sắc lịnh của
thiên tử. Tấm lòng chí công vô tư của vua Nghiêu, truyền ngôi cho người hiền mà
không truyền cho con, đã khai sáng nên một nền chính trị “Nhường vị” của Trung
Hoa từng được xưng tụng trong mấy ngàn năm qua.
Vua Nghiêu nhường ngôi cho vua Thuấn, chính sách trị nước của vua
Thuấn rất rõ ràng, chưa từng làm khó cho dân, người nam làm ruộng rẫy người nữ
dệt vải, muôn dân sống trong cảnh thái bình an cư lạc nghiệp, Thời ấy, con
người không hề tham lam, biết lễ phép và nhường nhịn nhau. Nên cảm ứng “Năm
ngày một cơn gió đến, mười ngày một trận mưa rào; gió nhẹ không lay cây, mưa
rào không phá đất.” Nhân gian mưa thuận gió hòa, sông xanh biển lặng, không gió
táp mưa sa phá hoại đất đai mùa màng. Bốn biển một lòng, phượng hoàng bay lượn,
thiên hạ sống có đạo đức, đều bắt đầu từ thời vua Thuấn.
Vua Thuấn qua đời tại Thương Ngô, làm vua được 49 năm, thọ 110
tuổi. Những năm cuối đời, vua Thuấn vì cảm kích công lao trị thủy của Đại Vũ,
tuy là có đứa con trai là Thương Quân nhưng Thương Quân bất tài vô dụng, nên
vua Thuấn đã tiến cử Vũ cùng trời thần, theo phép nhượng vị như vua Nghiêu mà
nhường ngôi lại cho Vũ. Từ đây chính sách ‘Nhượng vị’ của Trung Hoa lại thêm
một trang mới. Vua Thuấn là một vị hoàng đế hiếu thảo nhất của Trung Hoa, cho
dù phụ thân, mẹ kế, đối với vua tệ bạc bao nhiêu, em trai kiêu ngạo đến thế
nào, vua cũng không để trong lòng, vẫn giữ trọn lòng hiếu thuận.
ST