NHÀ NƯỚC PHÚC LỢI CỦA CÁC NƯỚC BẮC ÂU
Trên thế giới, tại một số quốc gia, nhà nước được mệnh danh là “nhà nước phúc lợi” và doanh nghiệp bảo đảm trách nhiệm xã hội đã trở thành tiêu chuẩn hành vi hướng tới.
Có thể tóm lược là, hệ thống phúc lợi xã hội bền vững được nhìn nhận và đánh giá dựa trên tình hình chế độ phúc lợi xã hội hiện có đối với người lao động nói chung, các quyền trong lao động (quyền hưởng và quyền tham gia), và sự phát triển hệ thống phúc lợi xã hội của một quốc gia dựa trên nguyên tắc phổ quát.
Kết quả của một hệ thống phúc lợi xã hội trong sự so sánh giữa các quốc gia với nhau được thể hiện ở chỉ số phát triển con người (HDI), hệ số GINI và chỉ số hạnh phúc.
Hệ thống phúc lợi xã hội ở các nước Bắc Âu
Hiện nay, hệ thống phúc lợi xã hội trên thế giới được thực hiện theo ba mô hình:
1- Mô hình tự do (liberal) là mô hình được áp dụng ở Mỹ, Ca-na-đa và Ô-xtrây-li-a, có đặc điểm là nhà nước chỉ can thiệp và giúp đỡ một cách có giới hạn đối với những người không còn khả năng sinh sống dựa trên thị trường, gia đình hoặc sự trợ giúp tư nhân.
2- Mô hình nghiệp hội bảo thủ (conservateur - corporatiste) là mô hình áp dụng điển hình ở Đức, Pháp, Áo, đặt nền tảng trên lao động làm công ăn lương, mang mục tiêu bảo vệ người lao động và gia đình của họ trước những nguy cơ, như tai nạn, bệnh tật, giá cả, thất nghiệp,... bằng cách bảo đảm cho họ một mức thu nhập tối thiểu.
3- Mô hình phổ quát (universaliste), hay còn gọi là dân chủ - xã hội được áp dụng ở các nước Bắc Âu, là mô hình theo đó nhà nước bảo đảm phúc lợi cho toàn dân một cách đồng đều. Mô hình này mang đặc điểm là có mức độ bảo hộ xã hội cao đối với các bất trắc trong cuộc sống, có mức thuế suất cao và cam kết với mục tiêu phân phối lại công bằng xã hội.
Hệ thống phúc lợi xã hội ở các nước Bắc Âu tập trung vào ba khía cạnh: chế độ phúc lợi xã hội hiện có đối với người lao động, quyền trong lao động (bao gồm quyền hưởng và quyền tham gia), sự phát triển hệ thống phúc lợi dựa trên nguyên tắc phổ quát.
Các nước Bắc Âu hiện là nhóm nước có chỉ số phát triển con người cao nhất trên thế giới. Trong tổng số 189 nước được xếp hạng năm 2018(3): Na-uy xếp thứ nhất, Thụy Điển: 7, Đan Mạch: 11 và Phần Lan: 15.
Phúc lợi xã hội điển hình của người lao động ở các nước Bắc Âu.
Mô hình phúc lợi xã hội ở các nước Bắc Âu có hai trụ cột là an sinh xã hội và dịch vụ công (giáo dục, y tế, giao thông công cộng...) với mức độ phổ quát cao (tất cả công dân được bảo đảm các lợi ích và dịch vụ an sinh xã hội cơ bản, bất kể thu nhập, giàu hay nghèo, có việc làm hay không có việc làm), với mức độ bình đẳng cao (phân phối thu nhập tương đối công bằng, giáo dục miễn phí và cơ hội bình đẳng trong tiếp cận việc làm và chính phủ bảo đảm việc làm thông qua các chính sách thị trường lao động tích cực).
Ở các nước Bắc Âu, cơ hội việc làm là công bằng và bình đẳng. Tỷ lệ thất nghiệp ở Bắc Âu thấp. Số liệu Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) cho thấy: năm 2017, ở các nước khu vực Bắc Âu 77,4% số những người trong độ tuổi lao động có việc làm, trong khi ở các nước nói tiếng Anh là 72,4% và của châu Âu nói chung là 68,9%.
Tỷ lệ phụ nữ tham gia lao động và chính trị ở khu vực này luôn cao nhất thế giới. Nam giới cũng được nghỉ khi vợ sinh con với thời gian dài nhất thế giới. Mặc dù không quy định trong pháp luật quốc gia về tiền lương tối thiểu, nhưng các thỏa ước tập thể ngành đều quy định về tiền lương tối thiểu ngành. Điều này cho thấy sự linh hoạt của thị trường lao động khi chính sách lao động được điều chỉnh thông qua thỏa ước tập thể thay vì trong pháp luật quốc gia.
Nền giáo dục ở các nước Bắc Âu được miễn phí hoặc trợ cấp cao. Nhà nước dành ngân sách lớn đầu tư cho giáo dục (khoảng 3% - 8% GDP), khuyến khích người dân học tập suốt đời. Nhà nước miễn 100% học phí trong giai đoạn học phổ thông và hỗ trợ học phí học đại học.
Chăm sóc trẻ em rất được quan tâm, thông qua các chính sách hỗ trợ của nhà nước, như miễn, giảm thuế hoặc trợ cấp bổ sung kéo dài 1 đến vài năm đối với những người đang nuôi con vị thành niên.
Nhà nước dành tới 2% - 3% GDP cho chăm sóc trẻ em, xây dựng hệ thống các nhà trẻ, trường mẫu giáo, trung tâm chăm sóc trẻ nhỏ... giúp các bà mẹ yên tâm tham gia thị trường lao động. Tỷ lệ nhập học của học sinh đến tuổi đi học ở các nước này thuộc nhóm cao nhất thế giới.
Trong lĩnh vực y tế, các nước Bắc Âu cũng đứng đầu thế giới về hệ thống y tế, bảo hiểm phổ cập và bao trùm, trong đó miễn phí khám, chữa bệnh cho trẻ vị thành niên (từ 16 tuổi trở xuống) và phụ nữ có thai. Quỹ bảo hiểm chiếm từ 20% - 30% GDP của các nước.
Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh ở mức thấp nhất, chỉ khoảng 3 trẻ/1.000 ca sinh. Tuổi thọ trung bình của người Bắc Âu lên tới 82,3 tuổi.
ST

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét