Cây Đàn Bầu tựa chiếc
“thiên cầm” hiên ngang, sừng sững giữa đất trời quê hương, tấu lên khúc nhạc
hồn thiêng dân tộc.
Trong các nhạc cụ Việt Nam, Đàn Bầu hay “Độc huyền cầm” là một
nhạc cụ thuần Việt nhất, đặc trưng nhất của dân tộc ta và cũng được coi là một
trong số hiếm hoi những cây đàn độc nhất vô nhị trên thế giới bởi cấu trúc, âm
thanh cũng như lối diễn tấu của nó không giống bất kỳ một loại nhạc cụ nào.
“Đàn Bầu” xuất hiện và biến hóa trong rất nhiều giai thoại tiên
cổ, những truyền thuyết kỳ diệu được lưu truyền trong kho tàng văn hóa nhân
gian.
Theo lời kể của cố GS. TS. Trần Văn Khê, nhà nghiên cứu trong
một bài tham luận về đàn bầu tại Bulgary đã kể lại câu chuyện truyền thuyết gắn
liền với sự ra đời của cây Đàn Bầu, được tóm lược như sau: “Cây Đàn Bầu
trong câu chuyện dân gian là món quà của một bà Tiên ban cho nàng dâu hiếu
thảo. Vì chiến tranh mà người con trai tên là Trương Viên phải ra trận, do loạn
lạc họ đã cách xa nhau. Để tận hiếu với mẹ già và trọn tình nghĩa phu thê mà
nàng dâu đã chịu móc mắt mình để tế hung thần trên đường đưa mẹ về quê lánh
nạn. Cảm động trước tấm lòng hiếu thảo sắt son, Tiên trên trời bèn hiện ra và
tặng nàng cây đàn một dây. Cây đàn ấy đã cứu sống hai mẹ con nàng qua những
tháng ngày cực khổ và cuối cùng giúp gia đình họ được đoàn tụ”.
Từ truyền thuyết xa xưa của dân tộc đến những dấu tích lịch sử
ghi lại đều có cùng điểm chung, đó là minh chứng cho sự gắn bó máu huyết của
Đàn Bầu với xóm làng, người dân lao động Việt Nam bao đời nay. Đàn Bầu là cây
đàn truyền thống của người Việt Nam, đã đồng hành với dân tộc ta qua biết bao
thăng trầm và biến động lịch sử, ngấm nhuyễn vào từng âm điệu dân gian, vào
từng lời ca “ru hời à ơi” của mẹ, bế bồng tâm hồn mỗi chúng ta hòa vào dòng
suối linh thiêng của nguồn cội.
Âm sắc của Đàn Bầu vang lên vô cùng mượt mà, trong trẻo, sâu
lắng và quyến rũ, rất gần với âm điệu, tiếng nói của con người nên dễ dàng
chuyển tải được những tâm tư, tình cảm mà người dân lao động Việt Nam xưa kia
muốn nói. Chính vì lẽ đó mà tiếng Đàn Bầu cất lên chính là tiếng lòng, vừa mang
ý nghĩa nhân văn, vừa mang nỗi khổ “sinh – lão – bệnh – tử” thời cuộc phong
kiến nhiều thị phi.
Đàn Bầu trong đời sống văn hóa Việt
Thời nhà Lý, Đàn Bầu được dùng để đệm cho người hát xẩm, làm
thanh bồi cho các khúc ca dân dã của nam thanh nữ tú tuổi tâm tình, của người
già khắc khổ trong chuyến hành hương cuộc đời gian nan, của trẻ em hồn nhiên
với tuổi thơ đầy bươn chải. Lời ca tiếng nhạc ngân lên như chính khúc tơ lòng,
thánh thót nhưng ai oán, thở than, đầy trầm tư cho kiếp dân quê đói nghèo lam
lũ - những "Làn thảm" của chèo; "Bèo dạt mây trôi" của quan
họ; "Nam ai" xứ Huế...; và vị ngọt ngào của những điệu hát ru, những
lời tình tứ ý nhị "Hoa thơm bướm lượn"; lại cả khi vui nhộn yêu đời
với "Trống cơm", "Con gà rừng"... Cuộc sống sinh hoạt của
người làng quê xưa, luôn có sự tồn tại của cây đa, giếng nước, sân đình, những
bụi tre già, cánh đồng lúa và đâu đó có cả những giọt đàn bầu.
Cây Đàn Bầu xưa tuy ít có mặt trong dàn nhạc Cung Đình, nhưng
trong chốn dân gian vẫn là người bạn thân tình của thôn xóm và luôn có mặt
trong đời sống thường nhật của người lao động Việt Nam. Đàn Bầu luôn tạo được
cho mình sức sống mãnh liệt, phi thường và ngày càng khẳng định vị thế đặc biệt
trong đời sống âm nhạc ngày nay cả trong nước cũng như toàn thế giới. Qua muôn
trùng sóng gió lịch sử, Đàn Bầu vẫn tồn tại như một minh chứng cho sự sinh động
của tinh hoa văn hóa dân tộc Việt Nam.
Mặc dù từ thời Lý, Đàn Bầu đã vô cùng phổ biến trong tầng lớp
chúng dân nhưng đến năm 1892, Đàn Bầu mới được những người hát xẩm phía Bắc đưa
vào xứ Huế để đệm đàn cho một số bộ phận vương quan. Cuối thế kỷ XIX - đầu thế
kỷ XX, Vua Thành Thái – một trong ba vị vua yêu nước thời Pháp thuộc - đã yêu
tiếng đàn Bầu như hơi thở quê hương xứ An Nam, lúc đó Đàn Bầu mới được thay thế
đàn tam trong ngũ tuyệt: tranh - tỳ - nhị - nguyệt - bầu, giữ vai trò là nhạc
khí không thể thiếu - với chức năng hòa tấu - trong dàn nhạc cổ truyền dân tộc.
Trong đời sống âm nhạc hiện đại ngày nay, Đàn Bầu không chỉ thu
mình vẻn vẹn trong những thể loại âm nhạc truyền thống mà còn vươn mình ra hòa
nhập với âm nhạc đương đại khi kết hợp cùng với Dàn nhạc Giao hưởng để thể hiện
rất thành công các tác phẩm thính phòng hay thậm chí ca khúc nhạc nhẹ trong và
ngoài nước như: Bản Giao hưởng thơ của nhạc sĩ Nguyễn Xinh, Ouverture của nhạc
sĩ Trọng Bằng, Sóng nhất nguyên của Nguyễn Thiện Đạo, hay tác phẩm “Ave
Maria” của Fr. Schubert,...
Đàn Bầu Việt Nam đặc sắc chính là do một sáng tạo, một phát
hiện, có thể nói ở mức phát kiến của tổ tiên người Việt, ấy là cách gảy đàn tạo
ra "âm bồi", thứ âm thanh kỳ lạ và mê hoặc không nhạc cụ nào trên đời
hơn được. Nếu như cao độ của những nốt nhạc phát ra từ đàn Phương Tây như piano
hay organ luôn xác định, thì âm thanh Đàn Bầu lại đọng lại giữa những khoảng
cao độ đó và biến ảo, để rất gần với giọng nói con người. Nó là giọng hát của
người đã được mượt hóa và ngọt hóa, để ngân lên các cung bậc sâu thẳm và phong
phú vô cùng tận của tâm hồn người, nhưng lại ẩn đi phần ngữ nghĩa của lời ca,
vì thế càng đa nghĩa và thâm sâu tuyệt đỉnh.
Chính từ ý nghĩa thâm diệu của Đàn Bầu cho nên nó không chỉ đóng
vai trò trong âm nhạc mà còn là một hình tượng rất phổ biến trong những áng văn
thơ và cảm hứng sáng tác của các thi sĩ, nhạc sĩ – những người nặng lòng với
cây đàn tri kỷ này. Những câu thơ tình tứ, nỉ non như:
“Một dây căng giữa đất trời
Cần nghiêng nghiêng tựa dáng người vươn cao
Tiếng
ngân ngân tận cõi nào
Dư âm rơi ngẩn ngơ vào tim ai.”
(Nguyễn
Hải Phương)
“Ôi! Đàn bầu quê tôi! Đàn bầu quê tôi!
Nửa bầu mà rót hoài không cạn
Một dây thôi – nói biết bao lời
Cung thương tha thiết chơi vơi
Cung trầm sâu lắng… rạng ngời tình quê.”
(Hoàng
Trang)
Cây Đàn Bầu thật tuyệt mỹ, tựa chiếc “thiên cầm” hiên ngang,
sừng sững giữa đất trời quê hương, tấu lên khúc nhạc hồn thiêng dân tộc.
Rất nhiều những ca khúc phổ nhạc từ thơ đã ca ngợi cây Đàn Bầu
như tinh huyết, như sự sống của văn hóa dân tộc. Những lời ca trong bài
hát “Tiếng đàn bầu” của nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc, lời thơ Lữ
Giang vô cùng mượt mà, thắm thiết: “…Tiếng đàn bầu của ta. Cung thanh
là tiếng mẹ. Cung trầm là giọng cha. Ngân nga em vẫn hát. Tích tịch tình tình
tang
Bên cạnh đó, Đàn Bầu Việt Nam đã vượt chiều dài không gian và
làm say đắm, thổn thức trái tim của biết bao nghệ sĩ, nhà thơ nước ngoài bởi
hình tượng quá đỗi nên thơ và độc đáo. Cây đàn đã được ca ngợi trong nhiều tác
phẩm của các nhạc sĩ, thi sĩ người Pháp hay Bulgary.
Có thể nói, Đàn Bầu như là hiện thân của đất nước và dân tộc
Việt Nam. “Giọt đàn bầu” mềm mại, thon thả như hình dáng đất nước; “Thanh âm
đàn bầu” da diết, sâu lắng như hành trình bôn ba đầy thăng trầm của lịch sử
dựng nước và giữ nước; “Âm điệu đàn bầu” như tiếng nói thâm trầm, giàu ngữ điệu
của con người Việt Nam chân phương, đằm thắm. Từ một nhạc cụ dân gian cấu trúc
đơn sơ, cây Đàn Bầu đã chiếm một vị trí độc tôn trong lĩnh vực nghệ thuật âm
nhạc và trong tâm hồn mỗi người con Việt.
Đàn Bầu, đó là sự kết tinh thiêng liêng nhất của truyền thống
dân tộc Việt Nam, nhân cách dân tộc Việt Nam và linh hồn dân tộc Việt Nam./.
Theo: Đặng Quỳnh Anh (hoinhacsi.vn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét