Thứ Tư, 13 tháng 9, 2023

Ý nghĩa chân thực của việc con người bái phật, khấn thần hay lạy chúa

 

Ý NGHĨA CHÂN THỰC CỦA VIỆC CON NGƯỜI BÁI PHẬT, KHẤN THẦN HAY LẠY CHÚA

Sâu thẳm trong tâm của những người đi lễ ngày nay là vì điều gì? Cầu tiền tài, cầu công danh sự nghiệp, cầu tình yêu, cầu sinh con đẻ cái, cầu tai qua nạn khỏi, hoặc giả cầu bình an.

Cũng có người làm việc ác xong rồi tới nơi thánh đường để mong được thanh thản. Kỳ thực tất cả những điều ấy không phải là ý nghĩa của việc con người bái Phật, khấn Thần, hay lạy Chúa.

Những ai bái Phật, khấn Thần, hay lạy Chúa với tâm thái mong cầu, thật cách quá xa cảnh giới của một người có đức tin chân chính. Vì vậy cho dù họ cầu nguyện nơi thánh đường, liệu có ai nghe không? Khi họ bước ra khỏi chốn bình an ấy, họ vẫn tiếp tục lao vào dòng nước xoáy, không thể duy trì được bản tính lương thiện trước những lời cám dỗ, không thể giữ được tính tham lam trước danh lợi.

Ngay cả những hòa thượng, cư sĩ, hay linh mục không vượt thoát khỏi nội tâm dơ bẩn, thì liệu ai sẽ nghe họ đây? Tất cả những người ấy, họ là đáng thương nhất, đã đứng trước cửa phật một nơi thanh tịnh mà vẫn không vứt bỏ được sự cám dỗ của xã hội.

Người xưa có câu: “Võng khai nhất diện”. Cái lưới kia không phủ trùm lên ai, không bao vây ai, chỉ có những kẻ mù quáng thì mới lao vào mà bị mắc lưới. Lưới Trời tuy thưa mà khó lọt, muốn thoát khỏi đại nạn, con người chỉ có thành tâm sám hối, tự nhìn lại bản thân. Xã hội biết bao thứ xấu nhưng nếu thiện tâm luôn vững vàng thì sẽ không bị cuốn theo.

Nguồn: vandieuhay

Thời hiện đại cần có chế độ nghỉ và ngơi

 

THỜI HIỆN ĐẠI CẦN CÓ CHẾ ĐỘ NGHỈ VÀ NGƠI

Gần đây Tây phương nghiên cứu nhiều về thiền, ứng dụng thiền vào cuộc sống. Họ mời các nhà sư Tây Tạng tham gia, dùng nhiều kỹ thuật đo đạc hoạt động của não bộ như EEG, fMRI, PET… để xem xét coi có sự chuyển biến trong não bộ thế nào trong lúc hành thiền và đã phát hiện ra nhiều điều lý thú rồi ứng dụng để chữa nhiều bệnh trong đó có bệnh tâm thần, mất ngủ, nghiện, tim mạch…

Các phương pháp tâm lý trị liệu như MBSR (Midfulness-Based Stress Reduction) hay MBCT (Midfulness-Based Cognitive Therapy) chủ yếu cũng dựa trên thiền Chánh niệm để giải quyết vấn đề stress, trầm cảm thường gặp trong đời sống hiện đại.

Ta biết khi stress kéo dài thì tuyến Pituitary ở não sẽ không tiết hormone tăng trưởng nên những trẻ bị căng thẳng quá trong học tập sẽ không lớn nổi.

Stress làm Tuyến tụy tiết ra Glucagon làm giảm Insulin gây tiểu đường. Tuyến sinh dục cũng không phát triển được, không tiết DHEA bình thường.

Đó là lý do tại sao đời sống tình dục ngày càng có vẻ yếu đi, yếu đến nỗi người ta phải dùng thuốc cường dương các thứ …


Một dấu hiệu quan trọng của stress nữa là giảm sút trí nhớ, luôn do dự, khó tập trung, suy nghĩ không logic, phán đoán sai, chỉ thấy mặt tiêu cực, mất định hướng, hoang mang, sợ hãi… hoặc buồn rầu, cô đơn, tâm tính bất thường…
Những dấu hiệu của stress về thể chất như nhức đầu, đau lưng, đau cột sống cổ… Đi bác sĩ đau đâu chích đó, hoặc can thiệp bằng mổ xẻ cũng không dứt hẳn. Vì gốc bệnh là do stress hoặc do tư thế ngồi làm việc, phải điều chỉnh.

Cần có một chế độ để nghỉ ngơi hợp lý. Nghỉ và ngơi là hai từ khác nhau. Ngơi là ngưng, ngưng hẳn. Nhiều khi nghỉ mà không ngơi. Cho nên, cần có nghỉ và ngơi thực sự. Chương trình đưa Thiền chánh niệm vào trường học (MiSP) nói trên có đề ra một công thức khá hay, mà tôi gọi là “Lá Bùa”, có thể dán bất cứ ở đâu để nhắc nhở mình. Đó là (.b).

Chấm (.) có nghĩa là Ngưng, Thôi, Dừng lại. Còn (b) là breath (thở chánh niệm) và hiện diện “ở đây và bây giờ”. Thực hiện được đã là rất tốt.

Thứ Ba, 12 tháng 9, 2023

Kinh tế học phật giáo cho thế kỉ 21

 

KINH TẾ HỌC PHẬT GIÁO CHO THẾ KỈ XXI

Kinh tế học Phật giáo là nơi người ta giúp đỡ lẫn nhau trong thời buổi khó khăn, quyền lực được san sẻ thay vì giành giật, tự nhiên được tôn kính và trí tuệ được yêu mến.

Kinh tế học Phật giáo, về cơ bản, là việc duy trì tri kiến Phật giáo để cạnh tranh với cái đạo mới của chủ nghĩa tiêu thụ, tận dụng Phật giáo như một sức mạnh để làm dịu nhẹ sự tổn hại gây ra cho tinh thần con người bởi cái đà tiến quân của toàn cầu hóa. Tức là, nó không đưa ra một mô hình kinh tế kiện toàn cho cả quốc gia, chỉ đơn giản là khuyến khích mọi người tư duy lại sự phát triển từ một viễn kiến Phật giáo mà thôi. 

Cùng tầm nhìn với E. F. Schumacher, Sivaraksa luôn phân biệt rõ ràng giữa sự phát triển đích thực với sự tăng trưởng vật chất vô hạn, theo đó, sự phát triển đích thực không coi vật chất và sự tích lũy của cải vật chất làm mục tiêu cuối cùng mà nhấn mạnh vào những thỏa mãn đơn sơ thường nhật thay vì lòng tham vô đáy, sự bảo tồn những giá trị thay vì bất chấp mọi giá để phát triển, sự hài hòa với tiết điệu của thiên nhiên thay vì sẵn sàng làm kiệt quệ các nguồn năng tự nhiên.

Ông đồng thuận và tán dương sự phát triển bền vững “kiểu Gandhi” hay sự phát triển từ dưới lên, “bắt đầu từ cấp xã thôn, bảo tồn văn hóa làng xã, đề cao sự tiến bộ trong đời sống xã thôn bằng cách gia tăng loại sản xuất không đòi hỏi nhiều đến máy móc”.

Phương pháp của Gandhi chính là kinh tế học tản quyền, đối ngược với những gì chúng ta được rao giảng về toàn cầu hóa, về “ngôi làng toàn cầu”.

Sivaraksa cũng cảnh báo chúng ta khi hiển nhiên nhìn mọi thứ qua lăng kính của kinh tế học, đó là lăng kính ít nhiều bị bóp méo, việc truyền cái quan điểm duy vật chủ nghĩa thành một viễn kiến toàn cầu sẽ tạo ra những hậu quả khôn lường:

Chính phủ trở thành những bộ máy tối đa hóa cơ hội cho những nhà đầu tư tư bản chủ nghĩa, con người bị biến thành đối tượng bị bóc lột lao động hoặc khách hàng tiêu thụ, cảnh quan bị xáo trộn, rừng rậm biến mất cùng với phần lớn đời sống động vật hoang dã, đất mẹ bị xâm hại một cách không thể vãn hồi.

Sivaraksa còn gợi ý các chính phủ nên tập trung vào Tổng Hạnh phúc Quốc dân - Gross National Happiness (GNH) thay vì Tổng Sản lượng Quốc nội - Gross National Product (GNP).

Sivaraksa chỉ ra, Tổng Hạnh phúc Quốc dân có thể không tăng hoặc thậm chí giảm mạnh ở những đất nước được coi là thiên đường tiêu thụ và có GNP cao ngất ngưởng.

Ông hoài nghi và chất vấn một cách sâu sắc niềm tin ở rất nhiều nơi trên thế giới rằng, cứ để nền kinh tế vận hành tự nhiên rồi một ngày nào đó ai ai cũng sẽ được hưởng tiện nghi, sản xuất sẽ dư thừa và không còn người bóc lột người.

Về mục đích giáo dục, Sivaraksa quan niệm, chúng ta cần kết nối cái đầu và trái tim thay vì tán dương thái quá sự ưu việt của trí óc, dạy cho thế hệ trẻ trân trọng cảm tính và sự hợp tác - giống như Luther King từng lên tiếng cảnh tỉnh:

“Quyền lực khoa học của chúng ta đã vượt xa quyền lực tâm linh của chúng ta”.

Sivaraksa cho rằng nền giáo dục thời đại mới có thể học hỏi rất nhiều từ giáo dục Phật giáo truyền thống, đó là nền giáo dục bắt đầu từ những câu hỏi tối hậu của loài người như: Ý nghĩa của đời sống là gì; trách nhiệm của ta với tha nhân là như thế nào; giáo dục, đối với một Phật tử, phải chăng là con đường để thoát khỏi vô minh, ngu si, dốt nát chứ không phải là phương tiện để chiếm được những kĩ năng, tri thức giúp kiếm sống.

-----

* Sulak Sivaraksa (1933) TS Phật học là tác giả của nhiều cuốn sách viết bằng tiếng Thái và tiếng Anh có nội dung vận động cho sự thay đổi bền vững, cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân Thái Lan nghèo ở vùng nông thôn, áp dụng thị kiến Phật giáo để canh tân xã hội.

Ông được biết đến rộng rãi ở châu Âu và Mỹ từ năm 1995, khi nhận giải thưởng Chính mạng (Right Livelihood Award) – một giải thưởng quan trọng “nhằm vinh danh và hỗ trợ những người mang lại những câu trả lời thực tiễn và mẫu mực đối với những thách thức cấp bách nhất mà chúng ta đang đối mặt ngày nay”.

Ông là giáo sư thỉnh giảng tại các đại học như ĐH California - Berkeley, ĐH Toronto, và ĐH Cornell

* EF Schumacher

Ernst Friedrich "Fritz" Schumacher (1911-1977) học kinh tế tại Đại học Oxford và Columbia và trong một thời gian là một người bảo trợ của John Maynard Keynes. Trong nhiều năm, ông là Cố vấn kinh tế trưởng cho Ủy ban than quốc gia của Anh. Ông cũng là một nhà biên tập và nhà văn cho tờ Times of London.

Ý tưởng tiên tri của EF Schumacher

Các mô hình kinh tế và lý thuyết chiếm ưu thế qua thế kỷ 20 đang nhanh chóng tan rã. Các nhà kinh tế tranh giành để đưa ra các giải thích và giải pháp. Tuy nhiên, phần lớn những gì đã đi sai đã được dự đoán từ nhiều năm trước bởi EF Schumacher, người đã đề xuất một lý thuyết về "Kinh tế Phật giáo".

Schumacher là một trong những người đầu tiên cho rằng sản xuất kinh tế quá lãng phí môi trường và các nguồn tài nguyên không tái tạo.