ĐÔ
THỊ PHÁT TRIỂN, THỊ DÂN CẢ MỪNG LẪN LO
Nhà kinh tế học Edward
L. Gleaser tại Đại học Harvard đã khẳng định rằng đô thị là nơi
con người tập hợp với nhau trong một không gian chật chội nhưng trong sự chật
chội ấy tồn tại một sự gần gũi. Ở đô thị, con người có thể giao thương và giao
lưu với nhau với một tốc độ nhanh chóng với một lượng thông tin và hàng hóa
khổng lồ, và đi kèm với đó là tạo ra một lượng lớn các công việc mang lại thu
nhập cho người dân. Đô thị thông qua hệ thống nghề nghiệp để phục vụ các nhu
cầu trong đô thị và cũng từ đó mà đời sống văn hóa được nảy sinh. Một đô thị sẽ
thất bại khi các cư dân rời bỏ nó, để lại một thành phố chết với hệ thống công
việc nghèo nàn và môi trường sống tệ hại.
Mô hình đô thị thất bại nhất dẫn tới sự rời bỏ của cư dân
chính là mô hình đô thị công nghiệp.
Edward Glaeser đưa ra những con số gây kinh hoàng từ trường
hợp đô thị công nghiệp ở Âu-Mỹ: “Tám trong số mười thành phố lớn nhất Hoa Kỳ
trong năm 1950 đã mất ít nhất 1/6 dân số kể từ thời điểm đó tới nay. Sáu trong
số 16 thành phố lớn nhất Hoa Kỳ trong năm 1950 – Buffalo, Cleveland, Detroit,
New Orleans, Pittsburge và St. Louis – đã mất hơn một nửa dân số kể từ năm đó
tới giờ.
Thời đại của các thành phố công nghiệp đã qua, ít nhất là
đối với phương Tây, và nó sẽ chẳng bao giờ quay trở lại. Một vài đô thị công
nghiệp gần đây đã xoay sở để tiến hóa từ sản xuất sản phẩm thành sản xuất ý
tưởng, nhưng phần lớn trong số chúng vẫn tiếp tục sự suy thoái chậm rãi và
không thể ngăn cản.”
Các đô thị này đều phục vụ chuyên biệt cho một tập đoàn
hoặc một nhóm tập đoàn công nghiệp nào đó, và đến khi ngành công nghiệp ấy trở
nên lỗi thời, đô thị không thể chuyển mình thay đổi kịp với thời đại mới và hậu
quả khó tránh đó là sự sụt giảm kinh tế dẫn dến sụt giảm việc làm. Bên cạnh đó,
do ưu tiên phát triển công nghiệp, môi trường sống của cư dân cũng không được
chú trọng khiến điều kiện sống tồi và không có cơ hội cho cư dân nâng cao tay
nghề cũng như kiến thức. Tất yếu, đô thị sẽ bị tụt lùi.
Ví dụ sống động nhất là thành phố Detroit: “Trong khoảng
từ năm 1950 tới 2008, Detroit đã mất đi hơn 1 triệu người – 58% tổng số dân của
nó. Giờ đây, 1/3 dân số Detroit thuộc diện nghèo đói. Thu nhập bình quân theo
hộ dân của Detroit là 33.000 đô la mỗi năm, bằng khoảng một nửa so với mức bình
quân toàn Hoa Kỳ.
Năm 2009, tỷ lệ thất nghiệp của Detroit là 25%, cao hơn 9%
so với tỷ lệ thất nghiệp của bất kỳ thành phố lớn nào và cao hơn 2,5 lần so với
tỷ lệ thất nghiệp trung bình cả nước.
Năm 2008, Detroit có tỷ lệ giết người cao nhất Hoa Kỳ, cao
hơn 10 lần so với tỷ lệ giết người của New York.
Chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy đâu đó bóng dáng tương
lai của các đô thị công nghiệp đang mọc lên như nấm tại Việt Nam từ sau khi
Việt Nam gia nhập WTO đến nay. Các khu công nghiệp được xây dựng, lôi kéo nhân
công địa phương tham gia các ngành công nghiệp và trong tương lai sẽ là các cư
dân của đô thị phục vụ cho khu công nghiệp ấy. Một điều dễ nhận thấy đây sẽ là
những khu đô thị tập hợp các nhân công làm việc, với lượng giao thông bụi bặm
do hệ thống vận tải phục vụ mục đích vận chuyển hàng hóa, kèm với đó là lượng
rác thải & chất thải công nghiệp kết hợp với sinh hoạt mà không phải lúc
nào cũng được ưu tiên để xử lý.
Khi người dân từ bỏ ngành nghề cổ truyền để chuyển hướng
làm việc trong các nhà máy, họ sẽ chỉ chuẩn bị cho mình những kiến thức và kỹ năng
ở trình độ thấp ở mức phù hợp. Nếu như trong tương lai, những ngành công nghiệp
này bị đình trệ, một tương lai khó tránh đó là toàn bộ hệ thống công nghiệp này
sẽ không chuyển mình kịp để tương thích, đặc biệt là với các ngành công nghiệp
nặng.
Bên cạnh đó, môi trường sống tồi tệ có thể dẫn đến sự suy
yếu về thể chất và suy giảm về năng lực học hỏi, càng giảm cơ hội cho sự phát
triển của người dân cũng như của đô thị.
Những nhân công giỏi với kiến thức và kỹ năng tốt, chắc
chắn sẽ chuyển tới các đô thị khác có các cơ hội tốt hơn cho họ, các ông trùm
rồi cũng sẽ rời bỏ, các quan chức địa phương rồi cũng sẽ hết nhiệm kỳ, chỉ
những người dân thụ động phụ thuộc vào định hướng phát triển do thượng tầng vẽ
ra là phải chịu đựng viễn cảnh tồi tệ.
Tính toán tối ưu để đô thị có cơ hội giao thương nhanh
chóng hơn, thông tin luân chuyển chính xác hơn, mức thuế ưu đãi hơn, giữ mức
chi phí đời sống rẻ hơn… luôn là công thức mang tính giải pháp nhưng dường như
các đô thị ở Việt Nam từ chối ứng dụng.
Nếu những người nghèo tìm đến các đô thị tạo ra công ăn
việc làm cho người nghèo, thì những nhân công có trình độ cao hơn cũng luôn tìm
đến các đô thị sẵn sàng trả mức lương tốt hơn cho họ và đáp ứng các nhu cầu lạc
thú xa xỉ hơn.
Nhưng mức lương cao đã đẩy giá thành tại các đô thị này
cũng theo đó mà ngày càng đắt đỏ, không chỉ giá các dịch vụ, lương thực thực
phẩm, chăm sóc y tế,… mà ngay cả chi phí nhà ở cũng tăng cao.
Một trường hợp nghịch lý tương tự đó là các khu ngoại ô tập
hợp nhiều người giàu “bỏ phố về rừng” để tránh xa các ồn ào và bụi bặm ở vùng
nội đô của người nghèo, để tận hưởng một cuộc sống trong lành gần gũi thiên
nhiên nhưng lại hủy hoại môi trường và tàn phá thiên nhiên hơn cả đời sống tại
đô thị. Tất cả những điều này ngăn cản sức sống của đô thị.
Những đô thị thành công trong lịch sử như New York,
Nagasaki, Bangalore, Thung lũng Silicon… tạo thành một trung tâm dân cư liên
văn hóa, tạo ra liên kết tri thức và hợp tác phát triển toàn cầu.
Nếu một đô thị không thể thu hút những tài năng và tạo ra
các tài năng mới, để liên tục kiến tạo và đổi mới, thì đô thị ấy, cho dù có
nhiều phúc lợi xã hội cho người nghèo hay xây dựng các đặc khu xa xỉ cho giới
thượng lưu hay nhộn nhịp hàng hóa vào ra, thì đô thị ấy luôn ở trong vòng
lặp của các nghịch lý và không tạo được những giá trị vững bền nội tại.
Đặc biệt, trong thời đại thông tin, trao đổi giá trị với
toàn cầu đòi hỏi các đô thị luôn cần tối ưu hơn, tinh gọn hơn và thông minh hơn
để các cư dân có thể vươn xa hơn, lành mạnh hơn và thịnh vượng hơn.