Thứ Ba, 7 tháng 1, 2020

Câu chuyện của đế chế Samsung




Câu chuyện của đế chế Samsung

Để hiểu hơn về câu chuyện này, hãy quay trở lại 1 chút vào thời điểm cuối những năm 1960 khi Lee Byung Chul người sáng lập Samsung, cha của Lee Kun Hee tìm kiếm người kế vị mình trong số 3 người con trai.

Người Hàn Quốc vốn rất kiêng kỵ việc "phế trưởng lập thứ" nên họ thấy bị sốc khi Byung-Chul sa thải 2 người con trai lớn đang làm việc tại Samsung để đảm bảo Lee Kun Hee có thể danh chính ngôn thuận bước lên ngai vàng mà không sợ bị 2 anh tranh giành quyền lực sau khi cha mất. Là con trai út, Lee Kun Hee sở hữu tính cách khá trầm lặng nhưng lại vô cùng quyết liệt.

Có lẽ chính vì sự quyết liệt ấy mà khi Lee Kun Hee tuyên bố mình sẽ đổi giờ làm việc của Samsung sang khung 7h sáng đến 4h chiều thay vì 9h sáng đến 6h chiều như đa số công ty Hàn Quốc, dù bị phản đổi nhưng ông vẫn kiên quyết duy trì đến cùng.

"7h sáng làm việc thì chưa có đối tác nào cả trong khi 4h chiều đối tác, khách hàng đang làm việc với mình thì lại hết giờ. Vậy nên cái kế hoạch nhận sự này bị phản kháng rất nhiều từ phòng nhân sự", cựu giám đốc nhân sự Samsung cho biết.

"Tôi là người đầu tiên giơ tay ủng hộ kế hoạch ấy vì khi đó công việc của tôi rất bận rộn, xuyên suốt từ 6h sáng đến 12h đêm. Có thời điểm vợ sinh con ở bệnh viện mà tôi không đến được. Sau này công việc dừng lúc 4h chiều thì tôi có thời gian học thêm tiếng Trung Quốc".

Một số tài liệu sau này cũng kể rằng Lee Kun Hee yêu cầu tất cả nhân viên của mình rời nhiệm sở lúc 4h chiều để dành thời gian cho các hoạt động xã hội cũng như tham gia những khóa đào tạo ngoài giờ của tập đoàn. Sau 4h chiều, ông thường tự mình gọi điện đến các bộ phận của Samsung một cách ngẫu nhiên, bất kỳ ai trả lời điện thoại sau 4h chiều đều bị quở mắng thậm tệ.

Cũng có lẽ vì tính cách quyết liệt đó, khi Lee ra quyết định đưa ra các chính sách đào tạo của mình, ông đã dự tính sẵn "5-10% nhân sự không thể thay đổi sẽ phải ra đi, 25-30% thấy sự thay đổi khó khăn sẽ được giao ít trách nhiệm hơn (giáng chức), chỉ 5-10% quản lý "cải tạo tốt" mới trở thành hạt nhân của chế độ mới".

Kết quả là trong suốt những năm cuối thập niên 90, không 1 công ty nào trên thế giới có tốc độ thay đổi nhân sự ở các vị trí lãnh đạo cao cấp nhanh như Samsung.

Năm 2003, sau 10 năm cải cách, Samsung chính thức được niêm yết trên sàn chứng khoán Hàn Quốc, các chỉ số tài chính được công khai. Theo đó, tổng giá trị của nhãn hiệu Samsung là 10,8 tỷ USD, đứng thứ 25 trong số các tập đoàn có giá trị lớn nhất toàn cầu.

"Tôi vô cùng tự hào vì từ 1 doanh nghiệp đến cái radio cũng không làm được, sau 10 năm chúng tôi lại có thể niêm yết trên thị trường chứng khoán", cựu giám đốc nhân sự Samsung cho biết.

“Tôi vẫn còn nhớ như in cảnh trong làng xóm tôi, gia đình nào mua được 1 cái TV Sony là cả xóm tập trung lại xem. Bây giờ Sony bán ở Hàn Quốc bao nhiêu sản phẩm? Rất ít thôi, giáo sư Ka tiết lộ.
Từ chỗ kém xa Sony, hàng hóa liên tục nằm phủi bụi tại các siêu thị, Samsung đã trở thành ông lớn trong mảng công nghệ, có số lượng điện thoại thông minh bán ra nhiều nhất trên toàn cầu.

Lee Kun Hee là gương mặt của thế hệ lãnh đạo thứ hai, người đã lãnh đạo ngành công nghiệp Hàn Quốc sau cha mình, Lee Byung-chul. Nếu thế hệ thứ nhất đã đặt nền móng cho hiện đại hóa kinh tế của Hàn Quốc, thì thế hệ thứ hai mà ông lãnh đạo sẽ toàn cầu hóa nền kinh tế Hàn Quốc.

Trong nửa thế kỷ qua, một trong những yếu tố tạo nên điều thần kỳ với nền kinh tế Hàn Quốc hùng mạnh như hiện nay một phần nhờ vào "văn hóa ppalli-ppalli" - có nghĩa là "nhanh nhanh". Tác phong nhanh nhẹn và hiệu suất lao động cao trong mọi công việc đã giúp cho giới doanh nghiệp phát triển mạnh. "Ppalli-ppalli" đã trở thành nguyên tắc vàng không chỉ với doanh nghiệp mà còn cả với chính phủ Hàn Quốc. Việc thực hành nó không chỉ trở thành một phần trong cuộc sống hàng ngày của người dân Hàn mà còn in sâu vào đầu họ như một giá trị căn bản. Nhờ vào nền kinh tế vội vã này, Hàn Quốc đã đạt được những bước dài trong một thời gian ngắn.
………….

Bán hàng của Samsung:

 

·        2018:  218,8 tỉ USD   
2005:   69,9     

Số lượng nhân viên 320.671,  73 quốc gia, cập nhật 24/3/19

Số điện thoại di động Samsung bán ra năm 2018: 295,04 triệu cái

·        Thị phần của Samsung trên thị trường điện thoại thông minh toàn cầu hơn 20% kể từ năm 2011, năm 2018 20,3%.
·        Hoa Kỳ: 34%, cập nhật 8/9/17
·        châu Âu: 40,6%, cập nhật 8/13/19
·        Mỹ Latinh: 45%, Cập nhật 6/-/16
·        Ấn Độ: 24%, cập nhật 14/11/17

Số tiền mà Samsung dành cho nghiên cứu và phát triển mỗi năm; 14 tỷ USD, cập nhật 6/6/18

Thứ Bảy, 4 tháng 1, 2020

Vì sao ngày càng nhiều CEO của Mỹ chỉ nhận lương 1 USD?


Một xu hướng lạ lùng đã xuất hiện trong vài thập kỷ qua, đó là tình trạng một số các CEO có danh tiếng chấp nhận mức lương 1 USD/năm (93 cents sau thuế) ngày một gia tăng. Vậy sự thật đằng sau hiện tượng kỳ lạ này là gì?

Đầu những năm 1940, thời điểm diễn ra Thế chiến II, nước Mỹ lúc ấy đang trải qua thời kỳ kinh tế vô cùng khó khăn. Tất cả mọi người, trong đó có những nhà lãnh đạo kinh doanh hàng đầu của quốc gia đều được kỳ vọng sẽ mang lại sự thay đổi tích cực.

Một số nhà lãnh đạo kiệt xuất, như Philip Reed (CEO của tập đoàn GE) và William S. Knudsen (Chủ tịch General Motors), đã cung cấp dịch vụ miễn phí cho chính phủ. Tuy nhiên, quy định pháp luật cấm Washington thuê các tình nguyện viên mà không trả lương, vậy nên những người này đã được đề nghị trả mức lương là 1 USD. Kể từ đó, họ được biết đến như “những người đàn ông 1 USD/ năm.”

Nhiều thập kỷ sau, ý tưởng trên đã được áp dụng bởi một nhóm các CEO mới trong khu vực kinh tế tư nhân. Đây không phải là sự hy sinh trong thời chiến, mà là một động thái hướng đến các cổ đông. Người dẫn đầu xu hướng này là Lee Iacocca, CEO của Công ty Chrysler.

Năm 1979, Chrysler, một trong những công ty  ô tô nằm trong “Big 3” (nhóm 3 công ty mạnh nhất nước Mỹ về lĩnh vực này), đã rơi vào tình cảnh vô cùng tồi tệ. Sau hậu quả của cuộc khủng hoảng dầu mỏ, Chrysler đã phải vật lộn trong việc huy động nguồn vốn nhằm nâng cao tính cạnh tranh trên trường quốc tế và giải quyết vấn đề thay đổi thị hiếu của người tiêu dùng, trong đó khách hàng có xu hướng ưa chuộng những chiếc xe với kích cỡ nhỏ hơn.

Trước tình hình này, Iacocca đã quyết định nhờ đến sự giúp đỡ từ phía chính phủ. Để thể hiện quyết tâm xoay chuyển tình thế của mình, vị CEO này đã cắt giảm lương xuống còn 1 USD. Khi Chrysler vay có bảo đảm 1,5 tỷ USD từ chính phủ và cuối cùng hoạt động ổn định trở lại, Iacocca đã được ca tụng và xem như  một “tấm gương tiêu biểu” cho “tinh thần hy sinh”. Từ đó trở đi, mức lương 1 USD đã trở thành một hình thức quảng bá mà giới CEO thường dùng nhằm thể hiện sự sẵn lòng cắt giảm lương trong thời điểm công ty gặp khó khăn.

Trong sự cố “dot-com” (bong bóng thị trường cổ phiếu) xảy ra vào đầu những năm 2000, một số CEO công nghệ đã tham gia vào “câu lạc bộ 1 USD.”

Steve Jobs được nhiều người biết đến khi cắt giảm lương của mình xuống 1 USD ngay sau khi tái gia nhập Apple và giữ mức lương này trong hơn một thập kỷ. James Barksdale (Netscape), John Chambers (Cisco), Tom Siebel (Siebel Systems) và Larry Ellison (Oracle) sau đó đã nhanh chóng học theo phương thức này.

Đến năm 2006, việc các CEO công nghệ nhận mức lương 1 USD đã trở thành một xu thế. Theo Tờ Los Angeles Times, đây là “một biểu tượng mới.”

Ngày nay, một số các CEO giàu có nhất tại Mỹ cũng tiếp bước truyền thống trên. Tuy nhiên, “sự hy sinh” của các CEO này hoàn toàn khác xa với những người trong thập niên 1940. Các CEO khi xưa kiếm được ít tiền hơn nhiều (đã điều chỉnh theo lạm phát) và phần lớn trong đó là dưới dạng tiền lương.

Ngược lại, tiền lương chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng số tiền thu nhập dành cho các CEO ngày nay; tiền của họ nằm dưới dạng các khoản thưởng (không phải tiền mặt) như cổ phiếu và cổ phần. Chẳng hạn, năm 2018, Jeff Bezos đã tự trả cho mình mức lương 81.840 USD, nhưng giá trị cổ phần của ông tại Amazon đã tăng thêm 24 tỷ USD, khiến Bezos trở thành người đàn ông duy nhất trên Trái đất có giá trị tài sản ròng (net worth) lên tới 12 chữ số.

Việc “hưởng” mức lương 1 USD thường được ca ngợi là một hành động nhân ái, tuy nhiên, những hình thức bồi thường thay thế cho nó thường mang lại cho cá nhân rất nhiều lợi ích.

Đằng sau mức lương khiêm tốn

Trước hết, nghiên cứu cho thấy rằng nhiều CEO có mức lương 1 USD sẽ được thưởng bằng cổ phiếu, cổ phần hoặc các khoản khác tương xứng, thậm chí lớn hơn nhiều so với khoản tiền mặt mà họ hy sinh.

Một nghiên cứu được thực hiện vào năm 2011 đối với 50 CEO cho thấy các CEO 1 USD đã từ bỏ mức lương 610.000 USD nhưng bù lại kiếm được 2 triệu USD từ khoản bồi thường dựa trên vốn cổ phần. Điều này không phải ai cũng biết.

“Chúng tôi đã tìm thấy bằng chứng cho thấy mức lương 1 USD thực chất là một chiêu trò nhằm che giấu lợi ích của các CEO nhận mức lương này,” nhà nghiên cứu cho hay. “Ngoài các hành vi thể hiện sự hy sinh mà họ định làm, chúng tôi còn phát hiện thấy việc áp dụng mức lương 1 USD là hành vi cơ hội của những CEO giàu có, tự tin và có tầm ảnh hưởng.”

Một nghiên cứu tương tự đánh giá các CEO nhận và không nhận mức lương 1 USD cho thấy tuy các CEO 1 USD kiếm được ít hơn khoảng 1,6 triệu USD về tiền mặt so với những người đồng nghiệp, nhưng rốt cuộc họ lại kiếm được nhiều hơn 3,5 triệu USD bằng các hình thức bồi thường thay thế.

Ví dụ, Steve Jobs, người nhận mức lương 1 USD/năm từ năm 1997 đến 2011, tức là 15 USD tiền mặt. Trong cùng thời gian đó, giá trị cổ phiếu của ông đã tăng từ 17,5 triệu USD lên 2,2 tỷ USD và Apple đã thưởng cho ông một chiếc máy bay riêng trị giá 90 triệu USD. Chỉ riêng trong năm 2007, ông đã thu về 647 triệu USD từ cổ phiếu hạn chế, theo hồ sơ của SEC (Ủy ban chứng khoán và sàn giao dịch Mỹ).

Một số ví dụ khác:
  • Năm 2011, Larry Ellison đã tự trả cho mình mức lương 1 USD nhưng đã kiếm được hơn 77 triệu USD bằng các hình thức bồi thường khác.
  • Năm 2018, CEO Steve Kean của tập đoàn Kinder Morgan, nhận mức lương 1 USD nhưng được trao tặng cổ phiếu trị giá 16 triệu USD.
  • Năm 2018, CEO Richard Fairbank của tập đoàn tài chính Capital One đã nhận 0 USD tiền lương nhưng có cổ phiếu trị giá khoảng 13 triệu USD và khoản tiền thưởng trị giá 4,2 triệu USD.
Ở đây, chúng ta không đề cập đến các CEO tại những công ty khởi nghiệp nhỏ. Những CEO có thể nhận mức lương 1 USD thường thuộc giới siêu giàu. Cụ thể, 30% trong số này nằm trong danh sách 400 người giàu nhất nước Mỹ (theo tạp chí Forbes), và phần lớn những vị CEO này đều nắm giữ vốn cổ phần rất lớn trong công ty của mình, khác với các CEO không nhận mức lương 1 USD.

Một trong những lợi ích thường dễ thấy nhất của việc áp dụng mức lương 1 USD là nó phù hợp với mục tiêu của CEO và công ty của mình, giúp việc lãnh đạo trở nên tốt hơn, qua đó khiến công ty hoạt động hiệu quả hơn. Nhưng điều này không phải lúc nào cũng đúng.

Tất nhiên, các CEO có động cơ khác nhau khi nhận mức lương 1 USD. Nhưng xem ra lợi ích cá nhân cũng đóng một vai trò nhất định trong một số trường hợp.

Một nhà phân tích trong ngành công nghiệp cho biết trên tờ Atlanta Constitution (Mỹ) vào năm 2007 rằng: “Họ mong chờ những điều tốt đẹp sẽ đến trong tương lai. Họ sẵn lòng đánh đổi thu nhập ngắn hạn để nhận được một khoản thu nhập dài hạn.”

Một lý do khác để nhận mức lương 1 USD, theo quan điểm một nhà nghiên cứu, đó là hành động này được xem như một chiến lược quảng cáo tài tình đến công chúng, đồng thời cũng là một nghệ thuật đánh lạc hướng.

Trong thời gian gần đây, việc nhận một mức lương thấp hơn đã trở thành cách thức “ngụy trang” trước tình trạng chênh lệch giàu nghèo.

Một đạo luật được Quốc hội thông qua vào năm 1993, tiền lương dựa trên hiệu suất lao động có thể được khấu trừ từ thu nhập chịu thuế của công ty. Khi các CEO chỉ nhận một mức lương thấp và chuyển phần lớn số tiền bồi thường của họ thành hình thức cổ phần, những người nộp thuế này đang tối ưu hóa thu nhập của mình một cách hiệu quả.

Theo Zachary Crockett/The Hustle,

 
Các CEO tại Thung lũng Silicon từng nhận lương 1 USD (Ảnh: internet)
1. Lawrence Edward Page  đồng sáng lập và CEO Google, người giàu thứ 7 trên thế giới tài sản ròng trị giá 55,5 tỷ USD. 

2. Jack Dorsey  là người đồng sáng lập và CEO của Twtter người giàu thứ 168 trên thế giới tài sản 5.1 tỉ USD.
3. Evan Thomas Spiegel CEO của một ứng dụng tin nhắn hình ảnh Snapchat. Tỷ phú trẻ nhất thế giới tài sản 2,7 tỷ USD.
4. Mark Zuckerberg đồng sáng lập và CEO facebook người giàu thứ 8 trên thế giới tài sản ròng trị giá 69,6 tỷ USD.