Thứ Bảy, 15 tháng 8, 2020

Cái chết đen, trận dịch (1348).

 

Bức họa Khải hoàn của thần chết (Pieter Bruegel the Elder, c. 1562.)

 

Bệnh dịch là chất thử nghiệt ngã đối với con người xã hội, kinh tế và chính trị.

 

“Cái chết đen” là một trong các ví dụ tiêu biểu về cách thức một bệnh dịch trong vòng bốn năm đã thay đổi diện mạo của thế giới và nền văn minh nhân loại.

Cái chết đen ám chỉ tới trận dịch hạch lan tràn trên lục địa Á-Âu giữa thế kỷ XIV. Nổi tiếng trên khắp châu Âu với tên gọi Cái chết đen, dịch bệnh này được cho là gây ra bởi vi khuẩn Yersinia pestis và lây lan thông qua loài bọ chét sống trên chuột đen. Quy mô của bệnh dịch này cũng tiến hóa theo bước đi của lịch sử nhân loại, gắn liền với ba trận dịch lớn có quy mô toàn cầu:

1. Trận dịch thời Justinian (541).

2. Cái chết đen (1348).

3. Trận dịch thứ ba (1855).

Năm 1344, Janibeg-Hãn của Kim Trướng Hãn Quốc (một nước Hồi giáo do người Mông Cổ thiết lập ở Trung Á) tiến hành cuộc tấn công vào bán đảo Crimea và bao vây thành phố Caffa (ngày nay là Feodosia). Thành phố này là một trung tâm thương mại chiến lược trên biển Đen và đang nằm dưới sự kiểm soát của các thương nhân Genoa. Khi chiến thắng đang ở tầm tay, đạo quân Mông Cổ bất ngờ bị dịch hạch vào tháng 10/1346. Quân lính bị chết chỉ sau 7-10 ngày nhiễm bệnh. Trong sự tuyệt vọng, Janibeg cho lính thu thập xác người bị dịch hạch và ném vào trong thành. Đây là câu chuyện đầu tiên về việc con người sử dụng “vũ khí sinh học” trong chiến tranh.

Vào tháng 10/1347, Janibeg chiếm được thành phố và những thương nhân Genoa chạy về Italia. Bệnh dịch nhanh chóng theo chân họ về đảo Sicily và sau đó là Genoa. Tới mùa hè năm 1348, Marseilles và Paris trở thành các nạn nhân tiếp theo. Năm sau đó, chúng xuất hiện ở vùng thung lũng sông Rhine và tràn vào vùng đất ngày nay là lãnh thổ nước Đức. Ở phía Tây, dịch bệnh cũng vượt qua eo biển tới London, trong khi một năm sau đó, chúng chinh phục Denmark và bán đảo Scandinavia (nơi 60% dân Norway được cho là bỏ mạng).

Vào lúc đỉnh điểm của các trận dịch này, có 800 người chết ở Paris một ngày. Con số này ở Pisa là 500 và 600 ở Vienna. Một nửa dân số của thành phố Siena đã chết trong vòng một năm. Tương tự Floren mất 50.000 dân trên tổng số 100.000 người. Người chép sử của thành phố Siena là Agnolo di Tura đã than khóc:

“Không từ nào có thể tả hết tính chất khủng khiếp của những sự kiện này… Tôi đã chính tay mình chôn cất năm đứa con trai của mình”.

Tranh Vũ điệu tử thần (trong Biên niên sử Nuremberg).

Sử gia người anh Alistair Horne ước tính trong vòng bốn năm từ khi Janibeg ném các xác chết vào thành Caffa, một phần ba dân số thế giới từ Iceland tới Ấn Độ đã bị thiệt mạng. Những thống kê khác chỉ ra con số khoảng 50% dân số thế giới đã bị chết, và con số này có thể vào khoảng 75-100 triệu người.

Trận dịch hạch lớn cuối cùng là vào năm 1855, bắt đầu ở Trung Quốc, và đã giết chết 10 triệu người chỉ riêng ở Ấn Độ. Chỉ đến năm 1895 bác sĩ Alexandre Yersin mới tìm ra nguyên nhân của dịch này khi nghiên cứu sự bùng phát ở Hong Kong.

Câu chuyện về các trận dịch, vì thế, là câu chuyện về số phận, trình độ kỹ thuật, và khả năng tổ chức của các xã hội người. Nó giúp chúng ta hiểu thêm về tình hình sức khỏe, vệ sinh, sức đề kháng của xã hội, mô hình thể chế hay khả năng thích ứng của các hệ thống chính trị.

"Cái chết đen" đã tham gia vào việc thay đổi nhiều trang sử của nhân loại.

Một chú giải nhỏ cuối cùng của câu chuyện quá khứ đau thương này xin được dành cho nàng công chúa của nước Anh: Joan, cô con gái được yêu chiều của vua Edward III (1312–1377). Vị vua đang can dự vào một trong các cuộc chiến tranh, dàn xếp chính trị và hôn nhân quan trọng nhất của Tây Âu có tên gọi: Chiến tranh Trăm năm (1337 - 1453). Để bảo đảm cho thắng lợi của mình trước người Pháp và mở rộng các vùng đất đang kiểm soát trên lục địa, Edward III quyết định gả con gái cho hoàng tử kế ngôi Peter của vương triều Castile (Tây Ban Nha). Cuộc hôn nhân chắc chắn sẽ tạo ra một bước ngoặt mới của cuộc chiến mà hệ quả của nó là việc vẽ lại bản đồ châu Âu.

Sau ba năm đính ước, mùa hè năm 1348, Joan được hộ tống từ Anh tới Tây Ban Nha bằng một hạm tàu vũ trang nghiêm ngặt gồm bốn chiếc. Một trong số đó được dành riêng cho xiêm y và đồ trang sức của nàng công chúa. Khi hạm thuyền tới Bordeaux, bệnh dịch đã tràn tới thành phố này, tuy nhiên người Anh dường như chưa nhận thức được tính chất nghiêm trọng của nó. Rất nhanh chóng, những người tùy tùng bỏ mạng, và tới lượt nàng công chúa 15 tuổi, qua đời ngày 1/7/1348.

Joan đã lỡ hẹn một cuộc hôn nhân, còn nước Anh lỡ hẹn với một đồng minh. Lịch sử không có nếu. Còn những gì diễn ra sau sự lỡ hẹn này là kết cục cuối cùng nước Anh thất bại trong cuộc chiến Trăm năm, nước Pháp tập quyền bắt đầu hưng thịnh, và lịch sử châu Âu sang trang mới.

Sẽ là cường điệu quá mức khi nói rằng chuột đen hay những con bọ chét đã vẽ lại bản đồ châu Âu, đánh tráo trật tự đế chế hay xác lập quyền lực toàn cầu, nhưng rõ ràng chúng đã tham gia vào các thời khắc quan trọng như thế của lịch sử con người. Và sẽ còn tiếp tục can dự trong tương lai.

Để kết lại, nếu có bài học gì từ quá khứ các trận dịch và số phận đau thương của con người thì đó chính là khả năng kiểm soát dịch bệnh và ổn định tình hình của người quản trị xã hội. Các tin đồn và hệ quả bi thảm của chúng là khía cạnh khác cần phải được xem xét nghiêm túc từ góc độ chính sách. Lịch sử cho thấy bản thân dịch bệnh đã là thảm họa, tuy nhiên các tin tồn và phản ứng thái quá có thể tạo ra sự hỗn loạn và chết chóc ở tầm mức lớn hơn nhiều, bao gồm có chiến tranh, bạo lực xã hội, xung đột tộc người, tôn giáo….

Từ việc người Do Thái bị săn lùng giữa những "Cái chết đen" cho tới giá khẩu trang tăng gấp 10 lần, câu chuyện của dịch bệnh vượt xa khỏi các bệnh viện. Đó là phép thử nghiệt ngã không chỉ đối với tính dẻo dai của tổ chức xã hội, tiềm lực của tích lũy xã hội mà còn là khả năng phản ứng của thể chế chính trị và nhà nước nhằm đối phó trong thời gian ngắn với sự sống còn của giống loài.

Theo tiasang.com

Thứ Sáu, 14 tháng 8, 2020

giáo dục không trường lớp cho tương lai

 

Sarah Dicke 18 tuổi, một học sinh tại trường trung học Lincoln ở Lincoln, Nebraska, sử dụng một lớp học ảo, trong đó tất cả tài liệu cho lớp học đều trực tuyến và giao tiếp với giáo viên của cô qua email vào năm 2000.

Trường lớp cho thời đại công nghiệp, giáo dục không trường lớp cho tương lai

Mô hình giáo dục bắt buộc của chúng ta hiện nay được xây dựng trong buổi đầu Thời đại công nghiệp. Khi các nhà máy thay thế công việc đồng áng cũng như việc sản xuất nhanh chóng vươn ra ngoài những ngôi nhà và hòa vào thị trường lớn hơn, giáo dục Mỹ thế kỷ 19 phản ánh các nhà máy mà phần lớn học sinh cuối cùng sẽ gia nhập.

Những tiếng chuông và còi báo hiệu lúc nào học sinh có thể đến và đi, sự chán ngắt của công việc, những hàng thẳng và sự đề cao kỷ luật cũng như phục tùng, những dãy người trẻ ngồi thụ động tại bàn đồng thời nghe lời các giáo viên của mình, các giáo viên nghe lời hiệu trưởng, v.v… – thảy những điều này đều được xây dựng nhằm hướng đến hiệu quả và trật tự theo kiểu công xưởng.

Thời đại sáng tạo

Vấn đề là chúng ta đã đi qua thời đại công nghiệp để đến với thời đại sáng tạo, nhưng hệ thống giáo dục đại trà của chúng ta vẫn duy trì trọn vẹn tính cực đoan trong kiểu giáo dục công xưởng. Nhiều ý kiến cho rằng giáo dục đại trà thậm chí còn trở nên hạn chế hơn so với một thế kỷ trước, chiếm nhiều thời gian thơ ấu và thanh niên hơn bất kỳ lúc nào trong lịch sử của chúng ta.

Quy chế giáo dục bắt buộc đầu tiên, được thông qua ở bang Massachusetts vào năm 1852, yêu cầu trẻ từ 8 đến 14 tuổi đến trường chỉ 12 tuần một năm, 6 tuần liên tiếp. Điều này có lẽ rất nực cười khi so sánh với quỹ thời gian khổng lồ mà giáo dục đại trà ngày nay chiếm lĩnh của tuổi thơ.

Việc bao bọc trẻ em trong các môi trường trường lớp ngày càng giới hạn trong phần lớn những năm tháng phát triển của chúng, và huấn luyện chúng bằng một chương trình được tiêu chuẩn hóa, phụ thuộc vào kiểm tra đánh giá là không phù hợp với thời đại sáng tạo.

Trong cuốn sách “Now You See It” của mình, Cathy Davidson cho biết 65% trẻ đang theo học tiểu học hiện nay sẽ làm những công việc không được sáng tạo trong tương lai. Bà viết: “Trong thời đại của sự thay đổi lớn lao này, chúng ta lại đưa cho lũ trẻ những bài kiểm tra và giáo án được thiết kế cho đời ông bà cố của chúng.”

Học trong những mô hình bắt buộc sẽ phá hủy cuộc sống của con người (phần lớn chúng ta đang như vậy). Sự xem nhẹ tính tự định hướng của chúng là khi trẻ em được dẫn dắt vào một xu hướng trọn đời nhằm “lấy cái chúng cần’ bằng bất kỳ phương tiện nào cần thiết… Chúng ta là một bộ phận đi ngược lại truyền thống nhận ra rằng kiểu giáo dục xưa cũ đang dần xuống cấp theo nhiều mức độ có liên hệ mật thiết với sự sụp đổ nói chung nền văn hóa của chúng ta.

Trong khi quá khứ thuộc về những công nhân dây chuyền, thì tương lai thuộc về những nhà tư tưởng sáng tạo, những người nghiên cứu thử nghiệm và những nhà sáng chế. Quá khứ dựa trên tính thụ động, còn tương lai sẽ được dựng lên từ đam mê. Trong một bài viết gần đây về nghề nghiệp trong tương lai, tác giả đồng thời là chiến lược gia John Hagel III viết về sự cần thiết nuôi dưỡng đam mê để thành công và đáp ứng được những công việc sắp tới. Ông nói:

Một trong số các thông điệp chính của tôi tới các cá nhân trong thế giới đang thay đổi này là hãy tìm ra đam mê của các bạn và kết hợp nó với công việc. Một trong những thách thức ngày nay là phần lớn con người là sản phẩm của trường học và xã hội đương thời, xã hội khuyến khích bạn đi làm để nhận lương, và nếu nó hậu hĩnh, thì đó là một công việc tốt, trái ngược lại với việc khuyến khích bạn nhận ra đam mê của bản thân và tìm được cách sinh kế từ nó.

Sự học xuất phát từ đam mê

Nuôi dưỡng đam mê gần như là bất khả thi trong một cấu trúc giáo dục bắt buộc vốn coi trọng tính thích ứng hơn là sáng tạo và sự nghe lời thái quá. Điều này có thể giúp lý giải vì sao giáo dục không trường lớp, hay Giáo dục tự định hướng, xu hướng đang diễn ra, với nhiều bậc phụ huynh chuyển từ mô hình giáo dục trường học cho con cái mình sang một mô hình tự học tập. Với giáo dục tự định hướng, đam mê là cốt lõi trong toàn bộ việc học. Người trẻ theo sở thích và đam mê của mình, trong khi người lớn đóng vai trò như những người hướng dẫn, kết nối thanh thiếu niên đến với các nguồn lực khổng lồ của cả cộng đồng thực và số.

Trong mô hình này, việc học mang tính tự nguyện, không ép buộc và được xây dựng theo định hướng của chính cá nhân hơn là của bất kỳ ai khác. Giáo dục tự định hướng và phi giáo dục thường diễn ra tại nhà hoặc thông qua các cộng đồng, nhưng ngày càng nhiều cá nhân và tổ chức mở ra các trung tâm học tập tự định hướng đáp ứng cho những người học tại gia với cả hai lựa chọn toàn thời gian và bán thời gian. Các trung tâm này khiến Giáo dục tự định hướng dễ dàng tiếp cận được với nhiều gia đình ở nhiều nơi hơn, và mỗi trung tâm lại có một triết lý hoặc trọng tâm riêng.

Thay vì phàn nàn về tình trạng giáo dục, các Mạnh Thường Quân đang tạo ra những sự lựa chọn khác cho giáo dục thách thức lại nó. Tập trung vào đam mê và đặt trọn niềm tin vào sự tự định hướng cá nhân, những mạnh thường quân này – thường là các bậc phụ huynh, cựu giáo viên, và những người đã trở nên mất niềm tin vào giáo dục bắt buộc – đang giải thoát cho người trẻ khỏi hệ thống giáo dục đại trà lỗi thời và có hại. Các bậc phụ huynh sáng suốt cũng như các mạnh thường quân muốn đổi mới có thể là những nhân tố quan trọng trong việc kiến tạo lên một mô hình giáo dục mới tập trung vào sự tự do và hướng đến Thời đại Sáng tạo.

Lê Thúy Ái dịch

Từ Schooling Was for the Industrial Era, Unschooling Is for the Future của Kerry McDonald/Đăng tải trên FEE


Chuyện nhậu của đàn ông Việt

 

Chuyện nhậu của đàn ông Việt

Thời nay, khi các mối quan hệ xã hội nhiều khi xuất phát từ quán bia, quán rượu, khi các hợp đồng làm ăn cũng được ký kết trên bàn nhậu. Không biết uống rượu bia, khó được việc lắm". Dù là buổi trưa, hay xế chiều, bất kể giờ tan sở hay trước khi tan sở, trong những quán cafe, quán nhậu, quán cóc, nhà hàng đầy ắp đàn ông ngồi túm 5 tụm 3 uống bia, uống rượu.

Nhậu, cái từ đơn giản ngắn gọn có nguồn gốc phương Nam bây giờ đã có độ phủ sóng vô cùng lớn trên khắp đất nước ta. Đàn ông có nhiều lý do để tụ hội quanh bàn nhậu: buồn buồn chuyện thế sự: nhậu, tậu xe mới: nhậu; có phi vụ làm ăn mới: cũng nhậu,... Tóm lại họ là những bậc thiên tài về sáng tác lý do để nhậu.


Một nghiên cứu đánh giá tình hình sử dụng và lạm dụng bia rượu tại Việt Nam do Viện Chiến lược và Chính sách y tế tiến hành, 63% người sử dụng rượu bia là nam giới, trong đó trí thức lại là nhóm có tỷ lệ sử dụng cao nhất. Năm 2017, Việt Nam tiêu thụ tới 4 tỷ lít bia cùng 300 triệu lít rượu, tức là bỏ ra hàng trăm nghìn tỷ đồng. Đó là chưa kể phí tổn khổng lồ điều trị đủ các loại bệnh và tai nạn giao thông do lạm dụng rượu bia gây ra.

Trên một số báo "Tuổi trẻ Chủ nhật", tác giả Danh Gia đã đưa ra một vài nhận định nhỏ về đàn ông phương Tây, cũng là bức tranh đối lập với đàn ông Việt, như sau:

Bức tranh nhỏ đối nghịc lại: "Đàn ông các nước công nghiệp, tức các nước kinh tế thị trường nhất, đến giờ tan sở mệt nhoài vì công việc chỉ biết cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng, ba chân bốn cẳng leo lên tàu điện, đổi dăm ba tuyến đường mới về được đến nhà phụ vợ con dọn cơm, rửa chén rồi đi ngủ sớm, đến cuối tuần cần tranh thủ sửa sang nhà cửa, chở vợ đi chợ. Xu hào đủng đỉnh lắm thì tối thứ sáu đưa vợ, đưa con đi ăn tiệm hoặc đưa vợ con đi nghỉ mát cuối tuần, chứ không ai rỗi hơi nát rượu tối này sang tối khác với bạn bè.

Khi người ta phải đóng thuế thu nhập giá chót cũng 30%, khi người ta ở nhà thuê hay mua trả góp mỗi tháng cũng phải đóng từ 1/3 đến 1/5 lương cho tiền nhà, khi người ta sắm cái xe hơi, cái máy giặt, cái máy sấy khô quần áo…sao cho cuộc sống gia đình tiện nghi hơn, để rồi cuối tháng bị ngân hàng tự động trừ nợ, người ta mới không dám vứt thì giờ và tiền bạc cho các độ nhậu triền miên vì sợ ngày mai dậy không nổi, mất năng suất, mất óc sáng tạo nguy cơ thất nghiệp lộ  ngay trước mắt.