Khi đó ở phía bắc Tây Hồ,
nơi núi Tần Vọng có một cây tùng cao lớn, cành lá sum suê, uốn quanh như cái
lọng, cao tăng Đạo Lâm bèn tới thiền định và cất chòi ở luôn trên cây đó. Ít
lâu sau thì có đôi quạ lớn tới làm tổ ngay nơi ông ngồi, nên người đời quen gọi
ông là Ô Sào thiền sư (Ô sào tức là tổ quạ).
Quãng đời tráng niên tu
hành ngộ Đạo của thiền sư trôi qua bình thản trong bóng mát của tùng lâm cổ
kính. Cây cổ thụ chạng ba nơi có chiếc tổ quạ ngày xưa, theo năm tháng giờ đây
đã to lớn lắm rồi. Từ khi lên núi Tần Vọng hành thiền nhập định, chưa một lần
nhà sư rời khỏi căn chòi nhỏ xíu trên cây ấy.
Một hôm, có quan đại Thị
lang Bạch Cư Dị – cũng là một thi hào nức tiếng đương thời đi ngang qua khu
rừng đó. Trông thấy thiền sư đang ngồi vắt vẻo trên tàng cây. Vốn không ưa gì
hạng người “lánh nợ chợ đời” như thế, viên quan cau mày hỏi:
– Bộ hết chỗ rồi hay sao mà
thầy lại lựa nơi vắt vẻo hiểm nghèo như thế để ngồi vậy?
Thiền sư bình thản đáp:
– Chỗ của tôi xem ra còn vững vàng hơn cả ngàn lần cái chỗ mà quan lớn ngài đang an tọa đó!
Thiền sư bình thản đáp:
– Chỗ của tôi xem ra còn vững vàng hơn cả ngàn lần cái chỗ mà quan lớn ngài đang an tọa đó!
Quan thị lang ngẩn mặt nhìn
lại chiếc kiệu của mình đang ngồi, ngạc nhiên hỏi:
– Tại hạ là đại quan trọng yếu đương triều, địa vị trấn áp cả giang sơn, có gì mà nguy hiểm?
– Tại hạ là đại quan trọng yếu đương triều, địa vị trấn áp cả giang sơn, có gì mà nguy hiểm?
Thiền sư mỉm cười đáp:
– Củi lửa giao nhau, toan
tính chẳng dừng. Quan trường thay đổi, tranh chấp triền miên. Chỗ ngồi của ngài
là chỉ ở dưới vua, mà trên cả các quan và thần dân trăm họ. Vua thương thì quần
thần ghét, được lòng dân thì mất lòng vua. Tính mạng của đại quan gia và thân
quyến đều lệ thuộc vào lòng thương ghét của vua và sự tật đố tỵ hiềm của mọi
người.
Hỡi ôi, một chiếc ghế được
kê trên đầu lưỡi của thiên hạ thì không nguy hiểm sao được!
Bạch Cư Dị nghe vị thiền sư đang ngồi trên cây nói xong mà giật thót cả mình. Ông im lặng cúi đầu, hồi lâu sau mới cất tiếng hỏi:
– Thầy có thể cho tôi biết thế nào là đại ý của Phật pháp chăng?
Ô Sào thiền sư liền chắp tay trước ngực rồi tụng lên một bài kệ:
Tạm dịch là:
“Các điều ác chớ làm
Các điều lành vâng giữ
Tự thanh lọc ý mình
Đó là lời Phật dạy”.
“Các điều ác chớ làm
Các điều lành vâng giữ
Tự thanh lọc ý mình
Đó là lời Phật dạy”.
Bạch Cư Dị nghe xong thầm
nghĩ: “Ngỡ là vị Thiền sư này sẽ khai thị đạo lý thâm sâu gì cho mình, không
ngờ ông ta lại nói ra mấy điều đơn giản tầm thường đến thế”. Cảm thấy quá thất
vọng, quan đại Thị lang nói:
– Mong thiền sư bớt giận,
bổn quan thiết tưởng ngài sẽ chỉ giáo cho Pháp lý uyên thâm gì, chứ mấy đạo lý
thế này thì đến đứa trẻ lên ba cũng biết!
Thiền sư Ô Sào chắp tay hợp
thập, nhìn vị khách qua đường mỉm cười nói:
– Đúng thế! Thưa đại quan, đạo lý trên đứa bé ba tuổi là có thể nói ra được, nhưng ông lão 80 tuổi cũng chưa chắc đã làm xong. Ngài có thấy như thế không?
– Đúng thế! Thưa đại quan, đạo lý trên đứa bé ba tuổi là có thể nói ra được, nhưng ông lão 80 tuổi cũng chưa chắc đã làm xong. Ngài có thấy như thế không?
Bạch Cư Dị lập tức hiểu ra,
ngài im lặng cúi đầu thi lễ.
Kể từ đó, người ta thấy một đại quan viên thường xuyên lui tới chân núi Tần Vọng, nơi có bóng tùng cổ thụ ngàn năm mà vị cao tăng Ô Sào và cặp quạ đen thường cư ngụ để tham thiền học đạo.
Kể từ đó, người ta thấy một đại quan viên thường xuyên lui tới chân núi Tần Vọng, nơi có bóng tùng cổ thụ ngàn năm mà vị cao tăng Ô Sào và cặp quạ đen thường cư ngụ để tham thiền học đạo.
Tương truyền, dưới sự chỉ
điểm và giáo hóa của thiền sư Ô Sào, quan đại Thị lang Bạch Cư Dị mỗi ngày một
thêm minh huệ bất hoặc, tiến tới đại ngộ. Ông cũng nhất mực tín tâm và trân quý
Phật pháp hơn.