Hiển thị các bài đăng có nhãn Sử Việt. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sử Việt. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 4 tháng 10, 2025

Giai thoại Nguyễn Công Trứ

 

GIAI THOẠI NGUYỄN CÔNG TRỨ

Thuở nhỏ, cậu bé Củng học rất giỏi, thông minh dĩnh ngộ hơn thiên hạ, lại tinh nghịch, lém lỉnh chẳng ai bì, nổi tiếng “Thần đồng”. Tài cao trí sắc, đọc rộng nhớ nhiều, những câu đối đáp lỗi lạc của cậu bé Củng gây cho mọi người nỗi kinh ngạc và thú vị.

Khoảng 10 tuổi, Củng theo cha trở về Hà Tĩnh, sống tại làng Uy Viễn, Nghi Xuân quê nội. Trong làng có ông Đồ Trung là một người có máu mặt; ông đứng ra mời thầy đồ về nuôi trong nhà để trẻ con của làng tới học. Và trong đám học trò đó có cậu bé Củng.

Một hôm, khi cả lớp đang ngồi học, ông chủ nhà chợt nổi hứng đi vào và xin thầy cho phép ông ra cho các trò một vế đối. Được thầy đồng ý, ông Đồ Trung nói:

- Ta có câu đối này, trò nào đối hay và đối nhanh trước sẽ được thưởng một quan tiền!

Rồi ông ta chỉ về phía cây đại đứng ngoài vườn, đọc vế đối:

“Ngoài vườn cây đại nở hoa đại”.

Các học trò ngồi nhìn nhau, mặc dù rất thèm quan tiền (với các cậu đó là một giấc mơ lớn), nhưng không ai tìm được vế đối lại để lấy.

Thấy cả lớp im lặng, thầy học lên tiếng giục, thì chỉ có cậu bé Củng ra vẻ ngập ngừng khó nói. Thầy hỏi:

- Trò Củng, sao không đối đi?

Củng khép nép thưa:

- Thưa, con sợ bị quở phạt ạ.

- Trò cứ đối, - ông chủ nhà khuyến khích ra vẻ rộng lượng, - nếu hay thì ta sẽ thưởng cho, còn nếu có điều gì sơ suất thì ta và thầy cũng không bắt lỗi trò đâu.

Được lời, Củng nghiêm chỉnh đứng dậy đọc:

- Thưa, con xin đối là:

“Trong buồng ông Trung ấp bà Trung” ạ!

- Hay quá! Chuẩn quá! Trong đối với ngoài, Đại đối với Trung, và nở thì tất nhiên phải đối với ấp rồi!

Thầy và trò cả lớp được một trận cười nghiêng ngả, còn ông chủ nhà Đồ Trung thì đỏ mặt im lặng, và tất nhiên, phải trao cho Củng một quan tiền

 

 

NGUYỄN CÔNG TRỨ “NGÔNG NGAY TỪ LÚC CHÀO ĐỜI CHO ĐẾN TẬN KHI CHẾT”

Ngày mồng Một tháng Mười một năm Mậu Tuất (1778), tại tư gia của viên quan Tri huyện Quỳnh Côi, Thái Bình, bà huyện họ Nguyễn, sau cuộc vượt cạn kinh hoàng đã sinh hạ được một cậu con trai thân dài, trán rộng, mũi cao.

Các cụ xưa nói “Trai mồng một, gái ngày rằm” quả không sai - vừa mới lọt ra khỏi lòng mẹ, cậu bé đã tỏ ngay sự ngông bướng của mình bằng cách không chịu mở mắt nhòm và không thèm mở miệng khóc như những đứa trẻ sơ sinh khác.

Người nhà và hàng xóm đưa hết nồi đồng, mâm thau đến khua gõ liên hồi, cậu cũng điềm nhiên mặc! Chỉ đến khi cả đám người lớn đã mỏi rã rời, xuôi tay lắc đầu thì cậu mới dõng dạc cất tiếng khóc đầu tiên oang oang như tiếng chuông đồng!

Người cha của đứa bé mừng khôn xiết, vì ông vốn hiếm muộn, năm đó đã ngót nghét lục tuần mới có được cậu con trai nối dõi.

Là một nhà Nho hay chữ, nghĩ đây cũng là một điềm triệu báo điều hỉ, ông bèn ra thư phòng lấy giấy bút đặt tên cho con trai. Ông chọn cho cậu quý tử bướng bỉnh tên huý là Củng - theo chữ Nho có nghĩa là bền chặt, vững vàng; còn tên chữ là Trứ - nghĩa là rõ ràng, nổi trội.

Cậu bé đó chính là Uy Viễn Tướng công Binh bộ Thượng thư Nguyễn Công Trứ tương lai, và cũng là nhà thơ trác việt kiêm tay chơi số một một thời. Cả cuộc đời của cậu Củng - Trứ về sau quả đúng như những quan sát dân gian và ước vọng thầm kín của người cha già - bền gan vững chí và lẫy lừng sáng tỏ!

Nhưng đó chỉ mới là cái ngông khởi đầu. Tới tận khi đón cái chết, Nguyễn Công Trứ vẫn ngông.

Theo lời truyền, trước khi sang thế giới bên kia - chắc là cũng sẽ tiếp tục cái cuộc chơi bất tuyệt - Cụ dặn con cháu không nên bày cuộc tang lễ để khỏi tốn kém, làm khổ dân làng, mà cứ để Cụ nằm nguyên trên chõng như khi đang ngủ, thả xuống huyệt là xong!

Nhưng không biết là các con cháu có dám nghe theo lời Cụ hay không? Xưa nay người đời sau vốn coi trọng cái “lễ” của mình hơn là hiểu và tuân theo được cái lí, cái lòng giản dị và khoáng đạt, không chấp nê của những bậc vĩ nhân vừa khuất.

Cụ mất, theo Niên biểu ghi là ngày 14 tháng 11 năm Mậu Ngọ (1858), nhưng chính trong Gia phả lại chép là ngày Rằm. Nếu như vậy, thì quả là Cụ lại “chơi ngông” quả chót: lựa đúng ngày Sóc (mồng một) để đến nhập cuộc tang bồng, rồi chọn đúng ngày Vọng trăng tròn (15 Âm lịch) để vĩnh viễn rũ trường danh lợi ra đi.

Đúng là… đến cả chết cũng ngông!

Thứ Tư, 16 tháng 7, 2025

Chuyện xử án anh minh của vị quan mệnh danh ‘Bao Công đất Việt’

 

CHUYỆN XỬ ÁN ANH MINH CỦA VỊ QUAN MỆNH DANH ‘BAO CÔNG ĐẤT VIỆT’

Sử sách ghi chép, Quận công Nguyễn Mại là người văn võ song toàn, vị quan thanh liêm, chính trực. Ông được mệnh danh là Bao Công của đất Việt.

Nguyễn Mại là người làng Ninh Xá, huyện Chí Linh (nay là thôn Ninh Quang, xã Nhân Huệ, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Ông sinh năm 1655, năm 37 tuổi đỗ Đệ nhị giáp tiến sỹ xuất thân (tức Hoàng giáp) khoa Tân Mùi, niên hiệu Chính Hòa thứ 12 (1691) đời Lê Huy Tông.

 

Nguyễn Mại từng thẳng thắn chỉ trích lối sống xa hoa của chúa Trịnh, chúa Trịnh dù có phần phật ý nhưng vẫn kính nể và trọng dụng ông. Chúa Trịnh cũng là người giao cho ông trọng trách giữ thủy quân, sau làm đốc trấn Cao Bằng rồi chuyển về trấn thủ Sơn Tây.

Cũng tại trấn Sơn Tây, hay mảnh đất xứ Đoài này, mà chúng ta được biết đến tài năng xử án của Nguyễn Mại. Dân gian xứ Đoài truyền tụng ông là Bao Công của đất Việt bởi sự sâu sát, gần gũi với dân và tài xét đoán các việc anh minh. Hầu hết các câu chuyện xử án của ông được lưu truyền trong dân gian, dưới đây là một vài trong số đó.

Vả mặt người mất trộm truy ra kẻ cắp

Sách Đăng khoa lục sưu giảng còn lưu lại câu chuyện Nguyễn Mại phân xử vụ tranh chấp giữa 2 người đàn bà. Những năm làm quan ở Sơn Tây, trong một lần vi hành, Nguyễn Mại đi bộ ngang chợ Bảo Khám (huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh) thì thấy một người đàn bà luôn miệng nói tục, “bới” cả tổ tông kẻ trộm ra chửi. Quan hỏi người dân mới biết bà này bị mất trộm một chiếc màn.

 

Ông gọi người đàn bà lại hỏi chuyện, rồi đột nhiên sai người trói bà, kết tội bà chửi chua ngoa. Sau đó, đàn ông, đàn bà trong xóm được gọi đến đông đủ. Nguyễn Mại sai từng người vả vào mặt người đàn bà mất trộm với lý do “đã chửi ngoa”. Dân làng ai nấy đều thương người mất trộm nên chỉ tát nhẹ, chỉ riêng một phụ nữ xuống tay rất mạnh.

Chị ta vừa tát xong, quan Nguyễn Mại liền cho giữ lại tra xét, nói rằng: “Ngươi chính là kẻ ăn trộm nên mới đánh người ta đau như thế”. Người phụ nữ này vội quỳ xuống nhận tội. Cũng chính từ vụ án này mà người dân Sơn Tây coi ông như “Bao Thanh Thiên”. Sau khi ông mất họ còn làm cả thơ văn ca ngợi công đức của vị quan thanh liêm.

Vụ án thóc nảy mầm

Một lần, Nguyễn Mại đi ngang qua ngôi chùa ở huyện Sơn Vi (nay là huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ), một nhóm ni cô báo có người bị mất chiếc áo lụa quý. Thấy vậy, quan sai lập đàn cúng. Các ni cô được giao mỗi người một tay nắm một ít thóc, một tay nắm lấy tay của người bên cạnh rồi cùng chạy quanh đàn. Trước khi các ni cô chuẩn bị chạy, ông nói: “Hễ là kẻ gian thì thóc trong tay lập tức nảy mầm”.

Chỉ một hồi quan sát, Nguyễn Mại thấy một ni cô thường lén mở tay ra nhìn, gương mặt bồn chồn lo lắng. Lúc đó, ông yêu cầu tất cả dừng chân, nữ tu đó buộc phải nhận tội.

Bắt trai làng vét bùn tìm ra người trộm chuối

Một vụ án khác được Nguyễn Mại phân xử là ở làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm (nay là quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội). Khi thấy một người đàn bà chửi bới ầm ĩ vì mất trộm buồng chuối sắp đến ngày thu hoạch, ông bèn tập trung tất cả trai làng, ra lệnh xuống ao làng vét bùn. Lúc cả nhóm nghỉ giải lao, ông lại sai phát cho mỗi người một miếng trầu để ăn. Đích thân ông phát trầu cho từng người và nhận thấy bàn tay của một thanh niên có vết nhựa thâm.

 

Ông lệnh bắt ngay anh ta, nói rằng đây là vết tích của nhựa chuối, sau khi ngâm bùn mới hiện rõ trên tay, khó rửa sạch ngay. Người thanh niên nghe vậy đã không thể chối tội.

Chia đôi mảnh lụa tìm được kẻ gian

Một vụ trộm khác được Nguyễn Mại phân xử cũng nhanh chóng tìm ra thủ phạm. Hôm đó, ông vi hành ra chợ Sơn Tây liền gặp hai người phụ nữ giằng co, cãi vã om sòm. Đến gần, ông thấy cả hai đang giằng nhau một tấm lụa, ai cũng nhận mình là chủ nhân và nói người kia là phường ăn cắp… Nguyễn Mại ngăn hai người này lại rồi sai cắt tấm vải làm đôi, chia cho mỗi người một mảnh.

Lụa chia xong, ông quan sát thấy một trong hai phụ nữ vui vẻ ôm lụa bỏ đi, người còn lại đứng ôm mảnh lụa nước mắt lưng tròng. Ngay lập tức, ông sai bắt người đàn bà, trả mảnh lụa đã chia cho người còn lại và nói: “Phàm chỉ có người làm ra tấm lụa mới biết trân trọng, tiếc công sức của mình. Còn chỉ biết hưởng công sức người khác thì mới hí hửng nhường ấy”. Người đàn bà bị bắt sau nửa ngày giam đã thú nhận mình là kẻ trộm.

 

Thu phục và cảm hóa trộm cướp

Nguyễn Mại có cái uy của một vị quan xử kiện, nhưng mặt khác, ông cũng rất am hiểu tâm lý con người. Chính điều ấy đã khiến các tội nhân phải “khẩu phục, tâm phục”.

Khi ông còn làm Đốc trấn Cao Bằng, nơi đây thường có giặc cướp từ Quảng Tây (Trung Quốc) tràn sang. Nhận thấy họ chỉ là nông dân nghèo vì quá đói khổ, túng quẫn mới phải tràn qua biên giới đến Cao Bằng để cướp. Ông cho quân bắt lại rồi thả ra chứ không xét xử, cũng không làm công văn báo với quan lại vùng Quảng Tây, có nhiều lúc còn cung cấp lương thực cho họ để họ trở về. Ông cứ cho quân vây bắt rồi thả về nhiều lần như vậy. Cuối cùng đám giặc cướp cảm động trước ân đức của Nguyễn Mại mà không còn sang quấy nhiễu nữa.

 

Còn khi đang làm Đốc trấn ở Sơn Tây, thì một hôm công sở của ông chẳng may bị cháy, trại giam trộm cướp xứ Đoài cũng ở ngay gần đấy. Không ngần ngại, ông hạ lệnh thả họ ra, rồi nhờ họ giúp dập đám cháy. Khi đám cháy được dập tắt, các phạm nhân lại bảo nhau trở về trại giam để chờ quan Đốc trấn xét hỏi, chứ không một ai nhân cơ hội này mà chạy trốn.

***

Những câu chuyện trên đây chỉ là một phần nhỏ trong những vụ án nổi tiếng của Quận công Nguyễn Mại. Cho đến nay đã gần 500 năm kể từ khi ông qua đời, nhưng người dân xứ Đoài vẫn không quên truyền tai nhau những giai thoại đẹp về một tấm lòng trong sạch, một tài năng đức độ, một vị quan thanh liêm sáng suốt, và một vị Bao Công của nước Việt lưu danh muôn đời.

 

Chân Tâm