Hiển thị các bài đăng có nhãn Nhân vât lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nhân vât lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 15 tháng 8, 2025

Trần Quang Khải vị tướng làm nên lịch sử

 

TRẦN QUANG KHẢI VỊ TƯỚNG LÀM NÊN LỊCH SỬ

 

Hồi tưởng về cuộc đời: Vị tướng làm nên lịch sử

 

1. Từ Chiêu Minh Vương đến Thượng tướng Thái sư

Trần Quang Khải sinh năm 1241, là hoàng tử thứ ba của vua Trần Thái Tông. Sinh ra đã mang trong mình dòng máu đế vương, nhưng ông không chỉ là một hoàng tử hưởng vinh hoa, mà còn là một tài năng xuất chúng được rèn giũa từ nhỏ. Thầy của ông là Bảng nhãn Lê Văn Hưu, một nhà sử học, một học giả uyên bác. Nhờ vậy, ông sớm đã là người học rộng, tài cao, thậm chí am hiểu cả ngôn ngữ của các tộc người thiểu số.

 

Tài năng của ông nhanh chóng được vua anh là Trần Thánh Tông nhìn nhận. Năm 20 tuổi, ông được phong làm Thái úy, chính thức bước vào vũ đài chính trị. Năm 24 tuổi, ông được giao trọng trách trấn thủ Nghệ An. Con đường của ông dường như được trải sẵn để trở thành một trụ cột của triều đình.

 

2. Sóng gió chính trường và cái bắt tay lịch sử

Nhưng con đường của một bậc kỳ tài không bao giờ bằng phẳng. Vị trí cao nhất của ông khi đó, Tướng quốc Thái úy, đứng trên cả Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Giữa hai người, ngoài mối mâu thuẫn giữa hai chi trong hoàng tộc, còn có cả những bất hòa cá nhân. Một bên là tướng văn, một bên là tướng võ, sự tồn tại của mối bất hòa này chính là hiểm họa lớn nhất cho non sông trước vó ngựa của quân xâm lược Nguyên Mông.

 

Và chính trong bối cảnh ngàn cân treo sợi tóc ấy, lịch sử nhà Trần đã ghi lại một trong những khoảnh khắc đẹp nhất của tình quân thần. Hưng Đạo Vương chủ động gạt bỏ hiềm khích. Sử sách chép rằng, ông đã mời Trần Quang Khải xuống thuyền mình chơi, rồi thân chinh dùng nước thơm tắm cho Quang Khải và nói: “Hôm nay được tắm cho Thượng tướng!”. Trần Quang Khải cũng đáp lại: “Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho!”.

Cái khoát tay cởi áo cho nhau không chỉ gột rửa bụi trần, mà còn gột rửa tất cả những tị hiềm, để từ đó, hai ngôi sao sáng nhất của nhà Trần cùng đồng lòng phò vua, cứu nước.

 

3. Vị thống soái làm nên lịch sử

Khi vó ngựa Nguyên Mông một lần nữa giày xéo non sông vào năm 1285, Trần Quang Khải đã trở thành một trong những mũi giáo sắc bén nhất của quân đội Đại Việt. Dưới sự điều phối chung của Quốc công tiết chế Hưng Đạo Vương, ông đã chỉ huy những trận đánh làm thay đổi cục diện chiến tranh.

 

Từ việc trấn thủ Nghệ An, cầm chân và làm tiêu hao sinh lực địch, cho đến cuộc phản công thần tốc ngoài Bắc. Ông cùng các tướng lĩnh chỉ huy quân lính cảm tử, tấn công thẳng vào đồn thủy quân của giặc ở bến Chương Dương. Trận đánh kinh thiên động địa ấy đã khiến quân Nguyên phải bỏ thuyền chạy lên bờ, rối loạn. Thừa thắng, ông cho quân truy kích đến tận chân thành Thăng Long, rồi dùng kế phục binh đánh cho quân giặc đại bại, buộc Thoát Hoan phải bỏ kinh thành mà chạy.

 

Trong vòng chưa đầy hai tháng, hai chiến thắng lừng lẫy tại Hàm Tử và Chương Dương do ông góp phần chỉ huy đã làm nức lòng quân dân cả nước. Và ngày vua Trần trở về kinh đô, trong không khí khải hoàn, vị tướng tài ba lại trổ tài thi phú, viết nên bài thơ bất hủ “Tụng Giá Hoàn Kinh Sư”:

 

Bản Dịch

 
Chương Dương đoạt giáo giặc,

Hàm Tử bắt quân thù.

Thái bình nên nỗ lực,

Non nước ấy ngàn thu.

 

Bốn câu thơ cô đọng, hào sảng đã tạc vào lịch sử hào khí của một dân tộc bất khuất và tầm vóc của một vị tướng huyền thoại.

 

Kết bài

Trần Quang Khải không chỉ là một bức tường thành của non sông, người được vua Trần Thánh Tông khen tặng “Lưỡng triều trung hiếu thế gian vô”, ông còn là một thi sĩ với tâm hồn đa cảm, để lại cho hậu thế một di sản trọn vẹn – một sự kết hợp tuyệt vời giữa cương và nhu, giữa võ và văn, là một ngôi sao tỏa sáng vĩnh hằng trên bầu trời lịch sử Việt Nam.

 

 

 

Thứ Năm, 28 tháng 11, 2024

Tuệ Tĩnh Tiên thánh thuốc Nam

 

TUỆ TĨNH TIÊN THÁNH THUỐC NAM

Tuệ Tĩnh người đặt nền móng cho nền y học cổ truyền của nước ta. Ông đã để lại những bài thuốc, những bộ sách quý về y thuật cho người Việt.

Tuệ Tĩnh sinh năm 1330, tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, người làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thai, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng (nay là thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, Cẩm Giàng, Hải Dương).

Mồ côi cha mẹ từ lúc 6 tuổi, cậu bé Nguyễn Bá Tĩnh được các nhà sư chùa Hải Triều và chùa Giao Thủy (Nam Định) nuôi cho ăn học. Năm 22 tuổi, ông đậu Thái học sinh dưới triều vua Trần Dụ Tông.

Khác với những danh nho đương thời, Nguyễn Bá Tĩnh không ra làm quan. Sau khi đi chu du các nơi để nghiên cứu y dược, ông cắt tóc đi tu, về trụ trì chùa Hộ Xá, lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh.

Vừa đi tu, Tuệ Tĩnh vừa chuyên tâm học nghề thuốc, chữa bệnh cứu người. Với niềm đam mê vô hạn, ông dốc sức nghiên cứu y thuật, trồng cây thuốc, sưu tầm kinh nghiệm chữa bệnh trong dân gian, huấn luyện y học cho các tăng đồ.

Chỉ trong khoảng thời gian ngắn, Tuệ Tĩnh đã tổng hợp được y dược cổ truyền trong bộ sách "Nam dược thần hiệu" chia làm 10 khoa.

Sau đó, ông tiếp tục hoàn thành 2 quyển của bộ "Hồng Nghĩa giác tư y thư" biên soạn bằng quốc âm, nêu bản thảo của 500 vị thuốc Nam viết bằng thơ Nôm Đường luật; một bài Phú thuốc Nam nêu tên 630 vị thuốc bằng chữ Nôm.

Đó là những tài liệu vô giá, mở đường cho nền y thuật của nước ta sau này. Tác phẩm của Tuệ Tĩnh không chỉ giá trị trong y học, mà còn là tác phẩm quan trọng trong lịch sử văn học.

Thông qua tác phẩm của mình, Tuệ Tĩnh đã xây dựng được quan điểm y học độc lập, tự chủ, sát với thực tế Việt Nam. Câu nói "Nam dược trị Nam nhân" - thuốc của người Nam chữa bệnh cho người Nam thể hiện đầy biện chứng về mối quan hệ mật thiết giữa con người với môi trường sống xung quanh.

Ông phê phán tư tưởng mê tín dị đoan, chỉ tin vào phù chú, không tin vào thuốc. Ông nêu ra nhiều phương pháp khác nhau để chữa bệnh như: Châm, chích, chườm, bóp, xoa, ăn, uống, hơ, xông...

Theo một số tài liệu trong 30 năm hoạt động ở quê nhà, Tuệ Tĩnh đã xây dựng 24 ngôi chùa, biến các chùa này thành y xá chữa bệnh. Ông tập hợp được nhiều y án với 182 chứng bệnh được chữa bằng 3.873 phương thuốc.

Ngoài chữa bệnh, Tuệ Tĩnh luôn luôn nhắc nhở mọi người chú ý nguyên nhân gây bệnh, tìm biện pháp phòng bệnh tích cực. Ông nhấn mạnh tác dụng việc rèn luyện thân thể và sinh hoạt điều độ, nêu phương pháp dưỡng sinh tóm tắt trong 14 chữ: "Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần/Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình".

Đóng góp lớn vào nền y học nước nhà cùng quan điểm khoa học, tiến bộ đã dẫn dắt ông lên ngôi vị cao nhất của nền y học cổ truyền Việt Nam lúc bấy giờ, được hậu thế suy tôn làm: Tiên thánh thuốc Nam! Ông tổ ngành dược, người mở đầu nền y dược cổ truyền Việt Nam.

Đau đáu quê nhà

Biết tin Tuệ Tĩnh là thần y nổi tiếng nước ta, gặp bối cảnh Đại Việt bước vào giai đoạn suy yếu, triều Minh đã ép nhà Trần phải dâng nộp ông cho thiên triều phương Bắc. Bấy giờ, triều Trần thời vua Dụ Tông đã mục nát và suy yếu, Tuệ Tĩnh đã bị cống (có tài liệu ghi đi sứ) cho nhà Minh.

Vừa đặt chân tới Trung Quốc, bằng tài năng y thuật hơn người, ông lập tức chữa khỏi bệnh cho Thái hậu Minh triều, được vua Minh rất tin tưởng, phong là Đại y Thiền sư, có ý giữ ông lại lâu dài. Tuy vậy, Tuệ Tĩnh đã khóc trong lễ nhậm chức của mình.

Tuệ Tĩnh vẫn xót thương cho số phận của mình, ông luôn đau đáu nỗi niềm một ngày được về lại quê hương, thoát khỏi cảnh đất khách quê người. Nhưng đó là giấc mơ chẳng bao giờ trở thành hiện thực, cho đến khi qua đời ở Giang Nam (Trung Quốc). Xót thương số phận, Tuệ Tĩnh nhờ người khắc lên bia mộ ông dòng chữ: "Ai về nước Nam cho tôi về với".

Hơn 200 năm sau, năm 1690, Tiến sĩ Nguyễn Danh Nho của nhà Hậu Lê, người cùng làng với Tuệ Tĩnh đi sứ sang Trung Quốc, có đến viếng mộ ông. Đọc được dòng chữ ghi trên tấm bia, cảm động với lời nhắn gửi thiết tha của vị danh y, Nguyễn Danh Nho đã sao chép bia mộ và tạc khắc bia đá mang về quê hương.

Đến địa phận huyện Cẩm Giàng, thuyền chở bia bị đắm. Mọi người cho đó là đất đắc địa nên dựng bia tại nơi bia bị chìm, nay là đền Bia, xã Cẩm Văn, huyện Cẩm Giàng (Hải Dương).

Nhiều thế kỷ qua, Tuệ Tĩnh được nhân dân suy tôn là vị Tổ ngành y của Việt Nam. Nhớ tới công lao to lớn của Tuệ Tĩnh với nền y dược nước nhà, nhiều địa phương trên cả nước đã chọn tên ông để đặt cho các cung đường ở các đô thị.

Đền thờ của ông được lập ở xã Cẩm Văn, Cẩm Vũ (Hải Dương). Ở chùa Hải Triều làng Yên Trung, nay là chùa Giám, xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng, có đặt thờ tượng Tuệ Tĩnh.

Theo Giáo Dục và Thời Đại

 

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2024

Hai cô gái vinh dự được kéo lá cờ tổ quốc tại quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945

  

Cô Lê Thi

HAI CÔ GÁI VINH DỰ ĐƯỢC KÉO LÁ CỜ TỔ QUỐC TẠI QUẢNG TRƯỜNG BA ĐÌNH NGÀY 2-9-1945

– Đúng ngày này của 69 năm về trước, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bà Lê Thi - một nữ sinh Đồng Khánh đã vinh dự được kéo lá cờ tổ quốc trong giờ phút thiêng liêng ấy.

Câu chuyện cắm cờ ngày Tết độc lập diễn ra cách đây 69 năm, nhưng qua lời kể của bà, cảm xúc tràn về như mới diễn ra ngày hôm qua vậy. Bà Lê Thi bồi hồi nhớ lại: “Việc tôi được chọn kéo cờ trong lễ Tuyên ngôn Độc lập là hoàn toàn ngẫu nhiên, không hề được báo trước.

Ngày đó, tôi dẫn đầu đoàn Phụ nữ cứu quốc tiến về quảng trường Ba Đình. Một cán bộ trong Ban tổ chức đến thông báo cử người lên kéo cờ. Các chị em đồng thanh “Thi lên đi”. Khi ấy, tôi run lắm nên vẫn đứng yên.

Cô Đàm Thị Loan

Đang lưỡng lự thì trên gọi, dưới thúc, tôi “liều” bước lên”. Khi bà lên đến nơi đã thấy một chị du kích người Tày đại diện cho An toàn khu đứng ở đó, chưa kịp hỏi tên nhau, hai cô gái đã được dẫn đến cột cờ chuẩn bị nghi lễ. Bà Thi cho biết:

“Được chọn lên để kéo cờ là may mắn của tôi. Đây cũng là lần đầu tiên tôi và nhiều người được nhìn thấy Bác, vị cha già kính yêu của dân tộc. Lúc đó, Người mặc bộ quần áo ka ki, đi dép cao su...”.

Khi đứng trước lá cờ Tổ quốc thiêng liêng, làm một nhiệm vụ trọng đại mà không được tập trước... nên bà rất run. “Tôi lo lắm, mình kéo cờ nhỡ tắc thì sao? Đang miên man trong dòng suy nghĩ thì có tiếng nói cắt ngang:

“Chuẩn bị kéo cờ”. Tôi vội vàng nói với chị du kích người Tày*: Chị thấp chị nâng cao cờ lên, em cao hơn sẽ kéo. Hai chị em thỏa thuận như thế và “nín thở” kéo cờ. Đến

khi lá cờ đã lên cao, tung bay trong bản nhạc Tiến quân ca tôi mới dám thở phào”.

* Cô Đàm Thị Loan

2 bà Lê Thi và Đàm Thị Loan  
 

* Cô Đàm Thị Loan

Ảnh  1. Cô Lê Thi

2. Cô Đàm Thị Loan

3. 2 bà Lê Thi và Đàm Thị Loan