Trong số 103 người vợ của vua Tự Đức, không có ai hơn được Nguyễn Thị Bích về tài văn chương thơ phú, chính điều đó đã khiến vua đặc biệt khen ngợi, thán phục rồi đưa vào cung làm vợ sau khi thử tài của bà. Đây là một việc tuyển phi tần khác hẳn với lệ thưởng, không tuân theo các nghi thức điển chế cung đình đương thời.
Tự Đức, ông vua văn học yêu mến
khách văn chương
Tự Đức là vị Hoàng đế thứ tư của vương triều Nguyễn, tên
thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, còn có tên Nguyễn Phúc Thì, sinh ngày 25 tháng 8
năm Kỷ Sửu (tức ngày 22 tháng 9 năm 1829), con thứ hai của Nguyễn Hiến Tổ
(Thiệu Trị), thân mẫu là Phạm Thị Hằng (sau được tôn là Thái hậu Từ Dũ).
Khi nhỏ, ông có tước phong là Phước Tuy Công, đến tháng 10
năm Đinh Mùi (1847), ông lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Tự Đức và trị vì trong
36 năm (1847 – 1883), trở thành vị vua có thời gian ở trên ngai vàng lâu nhất
triều Nguyễn.
Vua Tự Đức có thể coi là một hoàng đế nổi tiếng về sự
nghiệp văn chương, ngay từ nhỏ đã chăm chỉ đèn sách nên ông rất giỏi Nho học,
sử học, triết học, văn học nghệ thuật và đặc biệt là rất sính thơ.
Vua đã để lại 600 bài văn, 4.000 bài thơ chữ Hán và khoảng
100 bài thơ chữ Nôm có nội dung phong phú, thể hiện tư tưởng, tình cảm, kiến
thức và cảm xúc của ông, đặc biệt là các tác phẩm lớn như “Ngự Chế Việt sử tổng
vịnh”, “Ngự chế thơ văn thập điều”, “Tự học diễn ca”, “Luận Ngữ diễn ca” v.v…
Chính bởi yêu văn học mà vua Tự Đức đã để lại nhiều giai
thoại văn chương rất thú vị với các bề tôi của mình như Cao Bá Quát, Nguyễn Hàm
Ninh… Và cũng nhờ đó mà vua đã tìm được cho chốn hậu cung của mình một tri âm,
tri kỷ văn thơ.
Năm Quý Mão (1843), khi đó còn là hoàng tử, Nguyễn Phúc
Hồng Nhậm vừa tròn 15 tuổi, được phong tước công, được mở phủ đệ riêng và lấy
vợ. Người vợ đầu tiên của ông là Vũ Thị Duyên, quê ở huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng
Bình, con gái của Ngự tiền đại thần Vũ Xuân Cẩn.
Mặc dù Tự Đức có nhiều vợ nhưng ngoài bà Chính phi Vũ Thị
Duyên, sử sách chỉ nhắc đến một số người là Thiện phi Nguyễn Thị Cẩm, Học phi
Nguyễn Thị Hương, Tiệp dư Nguyễn Thị Bích. Trong số đó, Nguyễn Thị Bích là
người được vua Tự Đức tuyển vào nội cung một cách khác với lệ thường.
Theo điển lễ của triều Nguyễn, phàm là con gái của các quan
trong triều sẽ được vinh dự tiến cung làm phi tần “nâng khăn sửa túi” cho hoàng
đế và tùy theo tước phẩm của người cha, cô được tuyển vào cấp bậc cao hay thấp.
Còn mỹ nữ trong dân gian thì phải qua các kỳ xét hạch
nghiêm ngặt về dung nhan, đạo đức, phẩm hạnh và tài thêu thùa, nấu nướng…
Tiệp dư Nguyễn Thị Bích còn được gọi là Nguyễn Nhược Thị
Bích, hay Nguyễn Nhược Thị, tự là Lang Hoàn (Lương Hoàn), sinh năm Canh Dần
(1830), quê ở làng Đông Giang, huyện An Phước, đạo Ninh Thuận (nay thuộc tỉnh
Bình Thuận).
Bà là con gái thứ tư của ông Nguyễn Nhược Sơn (San) quan Bố
chính tỉnh Thanh Hóa, mẹ là người họ Nguyễn hàm Thục Nhân.
Vừa có sắc, lại có tài, tiếng tăm của Nguyễn Thị Bích lan
rộng khắp nơi. Bấy giờ, quan Phụ chính đại thần Lâm Duy Nghĩa biết bà là người
hiếm có bèn viết tờ biểu tiến cử lên Tự Đức. Xem tờ biểu, vua rất ngạc nhiên về
một thiếu nữ mới 18 tuổi không những xinh đẹp mà lại giỏi văn thơ, bèn triệu
vào cung để thử tài.
Hôm đó có một buổi ngâm thơ vịnh cảnh, vua Tự Đức ra đề thơ
là “Tảo mai” (Hoa mai sớm nở) và bài họa của Nguyễn Thị Bích được nhà vua chấm
hay nhất, trong đó có hai câu rất nổi tiếng:
“Nhược giao dụng nhữ hoá canh
vị,
Nguyên tác lương thần phụ hữu Thương”.
Nguyên tác lương thần phụ hữu Thương”.
Nghĩa là:
“Nếu bảo dùng người cho vừa vị
canh,
Xin làm người bầy tôi giỏi giúp nhà Thương”.
Xin làm người bầy tôi giỏi giúp nhà Thương”.
Tự Đức đặc biệt khen ngợi rằng: “Khéo điều chế câu thơ như
người điều chế mai, tỏ rõ chí khí như của Tể tướng Phó Duyệt, thật là bổ ích.
Đáng tiếc là nữ, nếu là nam thì chức ấy trẫm cũng không tiếc”.
Sau đó, vua ban thưởng cho Nguyễn Thị Bích 20 nén bạc, đồng
thời tuyển vào cung cho giữ chức Thượng Nghị viên sư, đó là năm Mậu Thân
(1848).
Năm Canh Tuất (1850), bà được phong làm Tài Nhân thường hầu
trực trong cung và theo hầu vua Tự Đức mỗi lần đi tuần thú, nhiều lần được cùng
vua xướng họa. Bà vừa là người thông minh, học thức, lại ứng xử khéo léo, luôn
tỏ ra kính cẩn, đoan nghị, nên Tự Đức rất yêu quý bà.
Năm Mậu Thìn (1868) Nguyễn Thị Bích được tấn phong Tiệp Dư,
lãnh trách nhiệm dạy học trong cung đình.
Vua Tự Đức không có con nên lấy 3 người cháu, con của anh
em họ đưa vào cung nhận làm con nuôi. Đó là Nguyễn Phúc Ưng Ái (con của Thoại
Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Y), Nguyễn Phúc Ưng Đăng và Ưng Kỷ (con của Kiên
Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai).
Ưng Ái (sau là vua Dục Đức) do lớn tuổi nhất được coi là
con cả, vua Tự Đức giao cho Chính phi Vũ Thị Duyên nuôi dạy.
Còn Ưng Đăng và Ưng Kỷ (sau là vua Kiến Phúc và Đồng Khánh)
do Tiệp dư Nguyễn Thị Bích chăm sóc, giảng dạy những kiến thức về văn học, phép
tắc, lễ nghi nơi cung cấm nên bà được mọi người kính trọng gọi là “Tiệp dư Phu
tử”.
Chính bởi vậy bà Tiệp dư được Tự Đức tin cậy, yêu mến,
thường cho cùng đi trong những buổi vua đến vấn an mẹ và những cuộc trao đổi
riêng với Hoàng Thái hậu về công việc trong triều, trong hoàng tộc, những diễn
biến của đất nước.
Một thời gian sau, Tiệp dư Nguyễn Thị Bích trở thành Bí Thư
cho Thái hậu Từ Dũ, nhờ vậy mà bà nghe được nhiều điều trao đổi giữa thái hậu
và vua, bởi những lúc đó chỉ mình bà được ở gần hầu hạ.
Tháng 6 năm Quý Mùi (1883), vua Tự Đức qua đời. Mọi ý chỉ,
sắc dụ của Lưỡng Tôn Cung (Từ Dũ và Chính phi Vũ Thị Duyên) đều do một tay bà
soạn thảo, chấp bút.
Trong thời kỳ “tứ nguyệt tam vương” (bốn tháng ba vua),
cũng như những người ở nội cung, Tiệp dư Nguyễn Thị Bích phải chịu sự chuyên
chế của hai phụ chính đại thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường trong
việc phế lập các vua Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc.
Tiếp đó, vua Hàm Nghi lên ngôi được một năm thì xảy ra sự
biến “kinh thành thất thủ”, vua xuất bôn xuống chiếu Cần Vương kêu gọi chống
Pháp xâm lược.
Trong bối cảnh rối loạn lúc bấy giờ, Tiệp dư Nguyễn Thị
Bích hộ giá Tam cung (Thái hậu Từ Dũ và chánh phi, thứ phi của vua Tự Đức) cùng
triều đình chạy ra Quảng Trị, nhưng vì hoàn cảnh quá khó khăn nên không lâu sau
bà rước Tam cung trở lại Huế, đến lánh ở Khiêm Lăng (Lăng vua Tự Đức) rồi trở
về hoàng cung, chịu sự quản chế của Pháp.
Khi Nguyễn Thị Bích theo Tam cung hồi loan về Huế, lúc này
người con nuôi và cũng là học trò của bà, hoàng tử Ưng Kỷ, đã lên ngôi, lấy
hiệu là Đồng Khánh.
Cũng trong khoảng thời gian đó, bà hết lòng hầu hạ, làm mọi
việc do Thái Hoàng Thái hậu Từ Dũ giao cho, những lúc rảnh rỗi bà vẫn sáng tác
văn thơ.
Nguyễn Thị Bích còn để lại một ít bài thơ cảm tác bằng chữ
Hán, nổi bật nhất là bài thơ Đường luật thể hiện cảm xúc mừng vui khi vào năm
Tân Mão (1891), sau bao ngày tang thương dâu bể, lễ Nam Giao đầu tiên được tổ
chức lại.
Phong tục bao năm chẳng đổi
thay
Nước nhà hưng thịnh thấy từ đây.
Trong cung vua trẻ noi gương trước,
Dưới trướng tôi lành giữ nếp nầy.
Nước nhà hưng thịnh thấy từ đây.
Trong cung vua trẻ noi gương trước,
Dưới trướng tôi lành giữ nếp nầy.
Áo mão phơi bày đông kẻ nhớ,
Trống chiêng vang dậy lắm người khuây,
Xưa nay lễ nhạc là giềng nước,
Muốn được an dân phải thế nầy.
Trống chiêng vang dậy lắm người khuây,
Xưa nay lễ nhạc là giềng nước,
Muốn được an dân phải thế nầy.
(Đào Tất Đạt dịch)
Đến năm Nhâm Thìn (1892), để ban thưởng cho những công lao,
đóng góp của bà, Từ Dũ đã tấn phong cho Tiệp dư Nguyễn Thị Bích làm Tam giai Lễ
tần.
Đến tháng 11 năm Kỷ Dậu niên hiệu Duy Tân thứ 3 (1909), bà
phi tần tài hoa Nguyễn Thị Bích qua đời tại kinh đô Huế, thọ 80 tuổi, lăng mộ
đặt tại làng Dương Xuân Thượng (nay thuộc thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên –
Huế).
ST
Vua
Tự Đức và quần thần (tranh vẽ của họa sĩ Pháp)
Lăng Tự Đức nằm
trong một thung lũng hẹp thuộc phường Thủy Xuân, TP Huế. Công trình có kiến
trúc cầu kỳ, phong cảnh sơn thủy hữu tình và là một trong các lăng tẩm đẹp nhất
của nhà Nguyễn. Đằng trước là hồ Lưu Khiêm, được thả hoa sen tạo cảnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét