NGUYỄN CÔNG TRỨ VỚI MỐI TÌNH THOẢNG QUA
Nguyễn Công Trứ, tự là Tồn Chất, hiệu là Hy Văn, quê làng Uy Viễn, nay thuộc xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; người sau thường tôn xưng là Uy Viễn tướng công.
Giai thoại có kể câu chuyện thời trẻ, còn nghèo, Nguyễn Công Trứ đi theo làm anh kép hát. Trong đoàn có cô đào tên là Hiệu Thư xinh đẹp, chàng rất thích nhưng nàng chẳng để ý. Một hôm đoàn đi hát phục vụ một làng khác, Công Trứ vờ bỏ quên đàn. Đến giữa cánh đồng vắng, chàng mới kêu lên là quên mất đàn, anh chàng cùng đi trẻ hơn, phải chạy về nhà lấy đàn, chàng tranh thủ cơ hội tán tỉnh Hiệu Thư. Hiệu Thư phản ứng bằng tiếng “ứ hự!”.
Thời gian sau, khi đánh giặc thắng trận, cụ cho mở tiệc khao quân và đón đoàn đào kép đến ca hát. Trong đoàn có Hiệu Thư, giờ đã nhiều tuổi nên cụ không nhận ra. Cô ta bèn hát:“Giang sơn một gánh giữa đồng / Thuyền quyên ứ hự, anh hùng nhớ chăng?”.
Cụ mới hỏi: “Có phải Hiệu Thư đó không?”. Nhận ra người cũ, Nguyễn Công Trứ liền lấy làm vợ lẽ. Hiệu Thư thường theo trong quân, trong đợt đánh dẹp cuộc nổi dậy của Nùng Văn Vân ở Tuyên Quang, dù gian lao vất vả nhưng Hiệu Thư vẫn đi theo quân, nên cụ mới viết câu thơ: “Đành nhẽ cầm thư mà kiếm mã/ Ai hay kim chỉ cũng phong trần” (Cầm thư là đàn sách, chỉ nam giới, còn kim chỉ chỉ nữ giới).
Thời gian làm Thừa Thiên phủ doãn, cụ thường hay dạo thuyền chơi trên sông Hương, gọi bọn ca nương trẻ xuống thuyền ca hát, nên có làm bài thơ:
“Trên sông một chiếc thuyền nan
Một cô thiếu nữ, một quan đại thần
Ban ngày quan lớn như thần
Ban đêm quan lớn tần mần như ma
Ban ngày quan lớn là cha
Ban đêm quan lớn rầy rà như con…”.
Cụ có nhiều công lao khi làm Dinh điền sứ, khai khẩn vùng đất bồi ở vùng Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, lập nên hai huyện Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình) và nhiều làng xã thuộc các huyện khác.
Năm Tự Đức thứ năm (1852), cụ đã về hưu, nhân dân Tiền Hải nhớ ơn cụ, nhân chỗ nền nhà ở thời cụ làm Dinh điền sứ dựng một cái sinh từ (đền thờ sống), ngày hoàn công mới cử người về quê mời cụ ra chơi. Cụ ra dự được đón tiếp trọng thể. Một tên thị vệ thấy thế bèn bịa đặt tâu vua là cụ có ý đồ tập hợp dân chúng làm loạn.
Vua hạ mật chiếu sai Tổng đốc Hoàng Văn Thu (vốn là môn đồ của cụ) dò xét và đòi cụ về kinh. Vào Kinh, Tổng đốc và các quan lại ở Bắc và ở Kinh đều dâng sớ minh oan cho cụ. Tên thị vệ bấy giờ khiếp sợ bèn tự tử,
Vua biết là cụ bị nó vu oan nên triệu cụ vào triều. Vào bái yết, vua hỏi: “Lão thần ra Bắc có nghe dân tình đàm đạo gì không?”.
– Tâu bệ hạ, thần đi vào trong dân, có nghe một số câu đố rất hay, xin dâng lên Ngự lãm.
Vua cho phép, cụ liền đọc:
“Đem thân cho thế gian ngồi
Rồi ra lại nói con người bất trung”.
Vua hỏi: “Đó là cái gì?”.
– Muôn tâu, là tấm phản! Cụ lại đọc tiếp câu:
“Dốc lòng lo việc nước nhà
Người dù không biết, trời đà biết cho”. Vua hỏi: “Là cái gì?”.
– Muôn tâu cái máng nước”.
Vua hiểu ý cụ nên cười, xuống chỉ an ủi và cấp cho cụ 100 quan tiền làm lộ phí trở về quê.
Về hưu ở tuổi 73, cụ còn cưới một ngươi thiếp trẻ, tuổi mới đôi mươi nên làm câu thơ hài hước:
Tân nhân nhược vấn lang niên kỷ
Ngũ thập niên tiền nhị thập tam
(Cô dâu giá hỏi chàng bao tuổi, Năm mươi năm trước mới hăm ba).
Nhiều giai thoại về Nguyễn Công Trứ cho biết cụ là một nhà thơ có tài, một nhà chính trị và quân sự lỗi lạc, có tấm lòng vì dân, vì nước, một nhà nho sống lạc quan. Về già, nghe tin bọn Pháp xâm lược nước ta cụ còn dâng biểu xin cầm quân đi đánh giặc, nhưng đã cao tuổi nên vua không dùng. Cụ mất năm 1858, thọ 83 tuổi. Hiện nay, ở Uy Viễn (Hà Tĩnh), ở Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình) đều có đền thờ cụ.