Thứ Bảy, 21 tháng 8, 2021

5 người Mẹ nổi tiếng nhất trong lịch sử thế giới

 5 NGƯỜI MẸ NỔI TIẾNG NHẤT TRONG LỊCH SỬ THẾ GIỚI

Họ có thể là người Mẹ cao cả, có đức hy sinh cho con cái một cách thầm lặng và đáng nể phục. Song cũng có thể, họ chưa từng một ngày được làm Mẹ nhưng những cống hiến cho nhân loại, sức mạnh trí tuệ và lòng vị tha đã khiến cả thế giới phải cúi đầu và gọi họ bằng thiên chức thiêng liêng ấy.

1. Đức Mẹ đồng trinh Maria

Theo Tân ước, Maria (hay Mary) chính là Mẹ của Chúa Giêsu Nazareth, hôn thê của Thánh Giuse. Maria được tôn kính trong đức tin Kitô giáo, đặc biệt là trong Giáo hội Công giáo Roma cùng Chính thống giáo phương Đông và được gọi là Đức Mẹ. 

Theo truyền thuyết, Maria có họ hàng với Elizabeth (vợ của tư tế Zachariah) thuộc dòng dõi Aaron, đính hôn với Giuse (Joseph), dòng dõi nhà David. Trong thời gian đã hứa hôn (là thời kì đầu theo phong tục Do Thái), Maria được thần Gabriel đến báo tin rằng, cô sẽ trở thành Mẹ Đấng Messiah theo ý định của Thiên Chúa. Giuse chưa nhận ra việc mang thai của Maria là do quyền năng siêu nhiên của Chúa Thánh Thần nên tỏ ra băn khoăn và muốn bỏ Maria. Nhưng trong một giấc mơ, Giuse được thiên thần bảo đừng lo nghĩ mà hãy nhận Maria về làm vợ mình để hợp với lề luật.

Không lâu sau, đúng như những gì Giuse được thiên thần chỉ dạy trong giấc mơ Maria mang thai dù vẫn còn là trinh nữ và sinh ra Giêsu. Năm 12 tuổi, trên đường từ Jerusalem trở về sau Lễ Vượt Qua, Maria và Giuse bị lạc mất Giêsu và họ đã tìm thấy Giêsu trong Đền thờ Jerusalem, đang trò chuyện cùng với những thầy dạy. Niềm tin trong Công giáo tin tưởng rằng, Đức mẹ Maria cũng là một vị thánh, trọn đời đồng trinh, là người phụ nữ vĩ đại nhất vì đã cưu mang chúa Giêsu và là người phụ nữ quyền lực nhất trên thiên đàng.

2. Cornelia - Mẹ của Gracchi

 

Cornelia Scipionis, sống tại Roma vào thế kỷ 1 TCN, là một ví dụ hoàn hảo về người phụ nữ - người Mẹ đức hạnh La Mã. Cornelia là con gái của huyền thoại chiến binh anh hùng Publius Scipio Africanus (người đã đánh bại Hannibal trong cuộc chiến tranh Punic lần thứ 2). Bà kết hôn với Tiberius Gracchus Majo và sinh được 12 đứa trẻ, tuy nhiên chỉ có ba người con sống đến tuổi trưởng thành. Đó là cô con gái tên Sempronia, 2 người con trai: Tiberius và Gaius Gracchus.

Sau cái chết của chồng, Cornelia đã hy sinh tuổi xuân của mình để nuôi ba đứa con. Vua Ptolemy VIII Ai Cập đã từng cầu hôn và bị bà từ chối. Sự chung thủy của Cornelia thể hiện rõ nét lý tưởng thành Roma, “một góa phụ sẽ chỉ chung thủy với người chống đầu tiên mà họ lấy”.

Trong một thời gian dài, thành Roma chìm đắm trong sự xa hoa, phô trương nhưng Cornelia được người ta biết đến như một góa phụ sống khiêm tốn và tiết kiệm. Bà đặt mình vào địa vị một người mẹ để nuôi dạy con cái mà quên đi thân phận công chúa của mình. Cornelia học tiếng Latin và tiếng Hy Lạp, học thơ văn. Cornelia luôn có ảnh hưởng trong sự nghiệp chính trị của 2 con trai mình và bà vẫn luôn ủng hộ con cho dù họ đã từng có hành động phản đối cuộc sống quý tộc bảo thủ, nơi mà bà đã sinh ra. 

Sau khi 2 con trai của mình chết trên đấu trường chính trị, bà chuyển vào sống trong tu viện ở thành Roma và viết văn thơ. Cornelia được coi là minh chứng sống cho sự chung thủy, đức hy sinh của người mẹ. Sau khi bà qua đời, một bức tượng bằng đá cẩm thạch của Cornelia được xây dựng như để tôn vinh sự cao cả của những bà mẹ. Bà được ưu ái gọi bằng cái tên “Mẹ của Gracchi”.

3. Mẹ Teresa

 

Người phụ nữ nổi tiếng nhất của thế kỷ XX là một nữ tu có tên là Agnes Gonxha Bojaxhiu, được cả thế giới xưng danh Mẹ Teresa. 

Bà sinh năm 1910 tại Skopje, Macedonia, trở thành nhà truyền giáo Ấn Độ và giảng dạy tại trường tu Loreto ở Calcutta, bà có công thiết lập Dòng Thừa Sai Bác Ái vào năm 1950 chỉ với 13 thành viên, sau này phát triển với hơn 4.000 nữ tu, hàng chục trại trẻ mồ côi, trạm y tế cho người có AIDS và các trung tâm từ thiện trên toàn thế giới. Công việc của Mẹ Teresa nhanh chóng gây chú ý tới cộng đồng quốc tế, các tổ chức giúp đỡ người nghèo và xã hội ở các nước trên thế giới. 

Năm 1970, Mẹ Teresa trở thành một nhân vật nổi tiếng thế giới với các hoạt động nhân đạo cứu giúp người nghèo và những người sống trong hoàn cảnh tuyệt vọng, một phần là nhờ quyển sách và cuốn phim tư liệu tựa đề Something Beautiful for God của Malcome Muggeridge. Bà đã được trao giải Nobel hòa bình vào năm 1979 như một sự vinh danh cho các hoạt động nhân đạo của bà. Teresa không có gia đình và con cái nhưng bà được cả thế giới trìu mến gọi bằng tên Mẹ Teresa - “Vị thánh của những người khốn cùng”.

4. Mary Harris Jones - Mẹ Jones

 

Mary Harris (1/8/1837 – 30/11/1930) là con gái của một nông dân Công giáo La Mã. Mary Harris đã trở thành người sáng lập ra tổ chức lao động, đứng ra tổ chức các cuộc đình công lớn và đồng sáng lập ngày hội công nhân công nghiệp thế giới (Quốc tế Lao động).

Jones đã từng rất hạnh phúc trong ngôi nhà nhỏ của mình với chồng và 4 đứa con, làm công việc nội trợ, may vá và dạy học. Thay đổi lớn nhất của đời bà là khi chồng và các con đều chết vì bệnh vàng da, căn nhà bị phá hủy trong 1 đám cháy lớn. Mary Harris Jones chuyển sang hoạt động như một nhà tổ chức kêu gọi quyền cho giai cấp công nhân. Bà là một diễn giả làm việc rất hiệu quả, những bài phát biểu của Mary rất hùng hồn nhưng cũng hài hước. Từ năm 1897, Mary được gọi là “Người phụ nữ nguy hiểm nhất nước Mỹ” và được tầng lớp công nhân lao động gọi bằng tên “Mẹ Jones”.

5. Mẹ của Mạnh Tử - bà mẹ nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc

Mạnh Tử mồ côi cha và chịu sự giáo dục nghiêm túc của mẹ là Chương Thị, sau này được gọi là Mạnh Mẫu. Mạnh Mẫu nổi tiếng với câu chuyện 3 lần chuyển nhà để cho con trai mình được sống, học tập trong ngôi trường và môi trường giáo dục tốt nhất.

Một câu chuyện nổi tiếng khác về Mạnh Mẫu dạy con đó là khi đang dệt vải, thấy con trốn học đi về. Bà kêu Mạnh Tử đến gần rồi cầm dao chặt đứt tấm vải và mắng: “Con đi học mà bỏ học chẳng khác nào mẹ dệt vải mà chặt đứt nó vậy”. Thấm thía lời mẹ dạy, Mạnh Tử chăm học, dần trở thành học sinh giỏi nhất lớp và bậc đại hiền triết sau này.

Mạnh Mẫu nổi tiếng là một bà mẹ có cách giáo dục con nghiêm khắc và chu đáo nhất trong lịch sử. Bà có những cách dạy con hiệu quả như chọn môi trường sống thích hợp với con để tránh những ảnh hưởng xấu từ môi trường bên ngoài đem lại. Đồng thời, bà gieo vào tiềm thức con cái đức tính chân thật để tạo cho con nếp sống đạo đức sau này, dạy con tính cần cù, chăm chỉ, siêng năng, không biếng nhác, có một thái độ kiên trì nhẫn nại, khắc phục khó khăn, gian khổ.

 

Thứ Sáu, 20 tháng 8, 2021

Tình yêu và cuộc sống

 

TÌNH YÊU VÀ CUỘC SỐNG

Yêu thương, dù là chỉ yêu thương mới có một người, cũng là phá vỡ ranh giới tưởng tượng về một bản ngã để vươn tới nhận thức về sự tồn tại của một trong tất cả và của tất cả trong một. Do đó mà hôn nhân không phải là biện pháp thiết yếu để giải quyết tâm trạng cô đơn. Chỉ có tình yêu, bất cứ tình yêu nào, miễn là tình yêu lành mạnh, mới có thể giải quyết được cô đơn. Và cái cô đơn của con người chỉ có thể biến mất một cách tuyệt đối khi con người thấy mình sống trong hòa điệu lớn của vũ trụ, nghĩa là hiểu biết tất cả và thương yêu tất cả.

Hôn nhân không có tình yêu, hoặc hôn nhân chấm dứt tình yêu thì chỉ là một hình phạt, chỉ là tăng thêm sự cô độc. Cho nên chinh phục một người để cùng đi đến hôn nhân, điều nầy rất gần với sự hùn vốn làm ăn, không khác gì đi quảng cáo để tìm người góp cổ phần.

Tôi không chống đối gì sự làm đẹp và sự phô trương tài ba cốt để cho người kia say mê mình. Để chinh phục một người khiến cho người đó yêu mình, con trai cũng như con gái có ngàn vạn cách khác nhau, nhất là con gái, vì phái nữ đã được yểm trợ quá đầy đủ trong công tác này. Số lượng của những gian hàng cung cấp mọi thứ làm đẹp cho phụ nữ cũng đủ chứng minh cho điều đó.
Tôi không chống đối bất cứ một phương tiện nào miễn là những phương tiện kia không làm tổn thương danh dự và nhân phẩm mình.
Nhưng tôi nghĩ rằng những phương tiện ấy không đủ để nuôi dưỡng bảo vệ tình yêu. Như tất cả những cố gắng của em chỉ là để làm xong được giấy hôn thú thì tôi cho là bi thảm quá.

Hôn nhân không giải quyết được nhiều chuyện đâu. Hôn nhân, trong trường hợp này, giết chết tình yêu hoặc ảo tưởng tình yêu. Người con gái có thể thấy nhược điểm hiếu sắc của người con trai, và có thể chịu theo thị hiếu thay đổi của người con trai bằng cách chải đầu ba kiểu trong một ngày và thay áo bốn lần trong một buổi chiều. Nhưng liệu em có làm như thế được cả đời không, và liệu em làm như thế có đủ không. Tôi không tin là đủ.

Muốn có tình yêu đẹp đẽ và bền chặt những người yêu nhau phải biết xây đựng cho nhau. Nếu không, tình yêu sẽ được giới hạn lại trong sự ưa thích mới lạ về hình thức và trong hưởng thụ đổi chác. Từ điểm này, con người sẽ không vâng theo một quy luật nào nữa và xã hội sẽ rối loạn khi tình yêu được định nghĩa như sự đam mê sắc dục. Hiện tượng này sẽ phát hiện toàn diện khi tình yêu theo nghĩa đẹp nhất của nó vắng mặt hoàn toàn trong lĩnh vực con người.

Trích: Nói Với Tuổi Hai Mươi của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Làm sao để thích học

 

LÀM SAO ĐỂ THÍCH HỌC

Nếu em không thích học thì em không thể chăm học được. Vì vậy phải đánh thức sự khát khao hiểu biết trong em dậy. Có những phương pháp giúp em thực hiện trong đó tôi thấy có phương pháp giữ gìn sinh lực đừng cho phân tán vào những hoạt động không đâu và phương pháp gần gũi với những người thích học. Cố nhiên những người này không phải là những người "học gạo" - những người này, trong số đó có giáo sư và sinh viên, hay tìm gặp nhau để đàm luận, trao đổi và chia sẻ những lạc thú của sự khám phá.

Tôi đã có đi dạy học và nhiều khi nhờ tiếp xúc với vài ba người sinh viên ham chuộng hiểu biết thôi, thế mà tôi cũng được lây sự hăng hái và có thêm nhiều lạc thú trong sự nghiên cứu và trao đổi. Tôi cám ơn họ và tôi nghĩ rằng trong một lớp học mà không có một vài người học với tinh thần đó thì lớp học sẽ rất buồn tẻ. Có nhiều lớp học buồn tẻ thật vì sinh viên trong lớp chỉ muôn học để thi đỗ. Rất ít khi họ hỏi tôi về tài liệu và phương pháp khảo cứu; họ cứ hỏi tôi về bài giảng để họ có thể học thi. Như vậy thì chính tôi, tôi cũng phải xuống tinh thần.

Tôi thường nói: thi đỗ thì không khó, nhưng mà học không phải chỉ là để thi đỗ. Học là để biệt, để khám phá. Có những lớp học mà giáo sư giảng không biết mệt, đàm luận không biết mệt, chỉ vì trong đó có vài người thích học.

Tôi đã dạy trong một chứng chỉ triết và tôi ưa chứng chỉ này lắm chỉ vì trong lớp có một người lớn tuổi rất ham học. Người này là một bà khoảng gần sáu mươi tuổi, họ cố nhiên không phải vì muốn có bằng cấp mà vì sự hiểu biết. Bà theo dõi tôi rất chăm chú và hai con mắt của bà chứng tỏ rằng bà tìm thấy rất nhiều hứng thú trong sự học.

Hồi tôi giảng về triết Duy Thức ở Columbia, có một bà mẹ Công giáo, mother Fiske, giáo sư trường nữ đại học Manhattanville, đến dự thính. Bà không bỏ qua một giờ nào. Lại có một người bạn họa sĩ cũng đến ghi tên học. Thành thử chúng tôi đã làm việc hăng hái với nhau trong suốt khoá giảng.

Trích: Nói Với Tuổi Hai Mươi của Thiền sư Thích Nhất Hạnh