Thứ Tư, 24 tháng 6, 2020

10 ĐIỀU VÔ ÍCH


 Lâm Tắc Từ (1785 – 1850) là một vị quan nhà Thanh ở thế kỷ XIX rất coi trọng giáo dục gia đình đối với con cái. Đến năm 50 tuổi, ông đã viết tác phẩm "10 điều vô ích" như một bản gia huấn để lại cho con cháu. 

Bức họa của Lâm Tắc Từ (năm 1843)  

Lâm Tắc Từ đem những thứ mà mọi người coi là có ích, phân tích và đưa ra ranh giới. Cũng có nghĩa là, nếu không đáp ứng được điều kiện nào đó thì một số sự tình vốn xem ra là có ích lại có thể trở thành vô ích.
"10 điều vô ích" này chính là tiêu chuẩn tu dưỡng của bản thân Lâm Tắc Từ, cũng là nguyên tắc giáo dục con cái của ông, đồng thời tác phẩm cũng lưu lại nhiều bài học giáo dục bổ ích cho hậu thế:
.
1. Tâm địa bất thiện, phong thủy vô ích
Nếu tâm địa không thiện lương, thế thì dẫu có coi trọng phong thủy đến mấy cũng không có tác dụng.
2. Bất hiếu cha mẹ, thờ Thần vô ích
Nếu không hiếu thuận với cha mẹ, thì dẫu thờ phụng Thần linh như thế nào đi nữa cũng không có tác dụng.
.
3. Anh em bất hòa, kết giao vô ích
Nếu quan hệ giữa anh em không tốt, thì kết giao với bạn bè bên ngoài dẫu nhiều thế nào đi nữa cũng vô dụng.
4. Hành vi bất chính, đọc sách vô ích
Lời nói, việc làm của một người mà không đoan chính thì dẫu đọc sách nhiều thế nào chăng nữa cũng không thay đổi được khí chất, cũng là vô dụng.
.
5. Tâm thái cao ngạo, học rộng vô ích
Nếu một người mà tâm thái cao ngạo, tự cao tự đại, không nghe lọt tai những ý kiến bất đồng, thế thì dẫu có học rộng như thế nào chăng nữa cũng là vô ích.
6. Làm việc ương bướng, thông minh vô ích
Nếu một người làm việc mà cứ khăng khăng cố chấp với ý kiến thiên lệch của mình, không coi trọng đạo lý, dẫu có thông minh thế nào đi nữa cũng vô ích mà thôi, người này sẽ rất khó hợp tác, càng không thể kết giao được với những người hữu duyên, người tốt.
.
7. Thời vận không đủ, vọng cầu vô ích
Nếu thời cơ còn chưa đến, dẫu có cố sức mong cầu gắng gượng thế nào đi nữa cũng vô dụng. Do đó, vừa phải kiên trì sự việc của mình,vừa phải biết thuận theo tự nhiên, như vậy mới mong mọi việc êm ấm, tốt đẹp.
8. Lấy tiền của người, bố thí vô ích
Nếu một người thông qua các phương thức không chính đáng để có được tiền tài, thế thì dẫu có đem số tiền đó đi làm những việc thiện cũng là vô ích.
Ví như đem tiền tham ô đi công đức, xây chùa, đúc chuông... thì cũng chẳng có công đức gì, khi cái tâm bất thiện còn chưa thay đổi. Thế nên, Phật gia có giảng: Sám hối diệt tội. Hối lỗi, quy chính cái tâm rồi, thì bố thí, làm việc thiện mới là chân thiện, mới có công đức.
.
9. Không giữ nguyên khí, thuốc thang vô ích
Nếu một người không quí tiếc giữ gìn thân thể mình, thường thức đêm hoặc làm những việc không lợi cho sức khỏe, tổn thương nguyên khí, sau đó có thuốc thang tốt ra sao, nhiều thế nào đi nữa cũng không đổi lại được một cơ thể và tinh thần mạnh khỏe.
10. Dâm ác phóng túng, âm đức vô ích
Nếu một người sống phóng túng xa xỉ, hoang dâm vô độ, thì dẫu làm rất nhiều việc thiện, tích nhiều âm đức cũng vô ích.
Ví như kiếm tiền bất chính từ tham nhũng, cho vay nặng lãi, bảo kê, đòi nợ thuê, đâm thuê chém mướn; hoặc vung tiền vào những món hàng hiệu, những chốn ăn chơi sa đọa, thì dẫu có dùng bao nhiêu tiền của để hành thiện tích âm đức cũng vô ích, vì đó chỉ là chiếc mặt nạ che đậy cái tâm xấu ác buông thả phóng túng mà thôi, về căn bản chưa khởi lên thiện niệm, chưa có thay đổi về bản chất. 

Lâm Tắc Từ giám sát việc đốt thuốc phiện.

Trung Hòa

Thứ Ba, 23 tháng 6, 2020

Bài thi trạng nguyên: Kiệt tác trị quốc

 Bài thi trạng nguyên: Kiệt tác trị quốc, chống tham nhũng, chấn hưng giáo dục
Kỳ thi Đình năm 1472 có một bài thi được xem là kiệt tác, không chỉ giúp người làm bài thi này đỗ trạng nguyên, mà còn giúp nhà vua vận dụng trị quốc, chống tham nhũng vô cùng hiệu quả,
Kỳ thi Đình đòi hỏi các sỹ tự còn phải hiểu biết tình hình giang sơn xã tắc, vận dụng trí tuệ của mình nhằm lý giải đồng thời đề ra kế sách nhằm giải quyết những vấn nạn mà giang sơn gặp phải.
Bài văn sách của sĩ tử Vũ Kiệt năm 1472 được xem là kiệt tác và giúp Vũ Kiệt đỗ trạng nguyên. Có lẽ đây là một bài văn mà hậu thế đến ngày nay vẫn cần phải học hỏi.
Trạng nguyên Vũ Kiệt sinh năm 1452 ở xã Yên Việt, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc thôn Cửu yên, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
Năm 1472, lúc 20 tuổi, Vũ Kiệt đã vượt qua thi Hương và thi Hội, được vào kỳ thi cuối cùng là thi Đình tại sân điện, diện kiến đức vua.
Tại kỳ thi Đình này, vua Lê Thánh Tông ra đề thi hỏi về sách lược “Đế Vương trị quốc”…

Phép chống tham nhũng
Vua Lê hỏi rằng:
Trẫm lo lắng cho cái thói tham lam làm đổi thay phong tục, nên đặt chức đình úy để xét tra những điều gian dối của bọn quan lại, thưởng người liêm khiết để khuyến khích làm việc tốt. Thế nhưng, người có chức vị vẫn không trong sạch, gió thổi bóng theo.
Bọn quan lại nhỏ tự làm những điều ô nhục, ngày càng tràn lan. Dân càng nghèo mà đóng góp ngày càng lắm, pháp luật càng nghiêm mà kẻ gian ngày càng nhiều. Việc quân cơ, việc chính sự biến đổi rối rắm.
Hãy nêu lên cái nguyên nhân sinh ra những tệ hại ấy và bằng cách nào để sửa đổi và có tin là sửa đổi được không?  
 
 
 Vũ Kiệt trả lời rằng: (trích lược)
Thần cho rằng câu hỏi của bệ hạ là muốn để tâm làm trong sạch mọi dòng vẩn đục và mong muốn các quan noi theo đó để làm chuẩn mực.
Quan lại thất đức, việc ăn hối lộ được đưa ra ánh sáng thì thói tham lam không thể phát triển mãi được.
Con người sinh ra không thể không có sự ham muốn, nếu con người không làm chủ được sự ham muốn ấy thì sẽ sinh ra rối loạn…
Vả lại gần đây, con người sống lâu trong thời bình, nên có phần sơ suất về màng lưới ngăn cấm trong đời sống hàng ngày.
Trong khi làm việc công thì thường dùng quà cáp, tết nhất, dùng của đút lót làm lễ vật hàng ngày, giày dép, quần áo diêm dúa, tiêu pha hoang phí, tệ tham nhũng tích tụ thành thói quen, điềm nhiên cho đó là việc thường.
Thần thấy tuy bệ hạ nghiêm khắc trong việc tra xét kẻ gian, tín cẩn biểu dương người tốt nhưng chưa đưa ra bộ mặt của đám tiểu nhân được…
Thần thấy trong Kinh lễ có câu “đại thần giữ phép, tiểu thần sẽ liêm chính” là có ý nói những việc làm của quan cấp cao thực để cho cấp dưới xem xét và noi theo…
Lấy lý mà nói thì bọn tiểu lại, trộm cướp còn tự thay đổi trước sự giáo hóa của quan lệnh trong ấp, huống hồ lại đối với các bậc quan trên…
Nhưng phép luật ngày nay thì người làm quan lớn hoặc ban ơn để tỏ rằng mình là người hiểu biết, hoặc rêu rao cái danh để cho cấp dưới cầu cạnh, sai bảo người khác, ban bố mệnh lệnh đều trái với lẽ phải, khinh trọng thiên lệch. Khi tìm được chỗ hở thì gây ra tệ lậu bán buôn, hoặc không giữ chắc của công, hoặc lấy của công để vun vén cho mình.
Sau khi phân tích Vũ Kiệt đưa ra hướng khắc phục: (trích lược)
Thần mong bệ hạ hãy tuyển chọn những người công minh trong sạch và ngay thẳng, lấy danh vị giao cho họ trọng trách…
Ra lệnh cho quan ngự sử kiểm soát, khích lệ biểu dương để thấy được những quan liêm khiết và nêu từng việc để biết được sự liêm khiết của họ. Ông quan nào thuộc hạng ô lại và cũng lấy việc ấy để nêu cái ô nhục của họ, để điều trần tâu lên chính xác rõ ràng. Nếu quả thực họ là người liêm khiết thì ân thưởng ưu đãi và quan trưởng cũng được ban thưởng. Nếu quả thực họ là kẻ tham ô thì hình phạt không tha thứ và trưởng quan cũng tùy theo đó mà xử phạt. Làm như vậy, con người sẽ tốt lên, thói tham sẽ ngăn chặn được.
Nếu như các bậc trưởng quan chẳng phải là người tốt mà là muốn bọn quan lại cấp dưới phải sống trong sạch, thế chẳng khác nào nước đầu nguồn đục mà mong cho dòng trong!
Kế sách chấn hưng giáo dục
Nhà Vua hỏi rằng:
Sách xưa có câu: “Thầy nghiêm thì việc học đạo mới được tôn kính”. Nhưng hiện tại nho sinh lại cảm thấy xấu hổ khi đến học thầy, cốt làm những chuyện họa may hoặc qua tuần, qua tháng lại đổi thầy. Một nho sinh mà chưa bao giờ biết gò mình trong việc tu chỉnh, khi đạt được danh vọng ở triều đình thì ít tuân theo lễ nghĩa. Đạo làm thầy bị bỏ rơi sao mà lâu thế, làm thế nào để cứu vãn được…
Vũ Kiệt đã làm bài rằng: (trích lược)
Thần nghe: Cái học của người xưa nhất thiết phải có thầy, người thầy làm nhiệm vụ truyền đạo, thụ nghiệp nêu lên những chỗ nhầm lẫn, giải thích những điều tôn nghi trong sách vở. Các ngành, các nghề, ngay cả những nghề vụn vặt cũng không thể không có thầy được, huống hồ người theo học đạo Nho?…
Là kẻ sĩ phải thấy rằng mình được vinh hạnh, càng chăm lo việc thực học.
Vũ Kiệt cũng nêu ra thực tại trong nền giáo dục: (trích lược)
Nhưng cũng có khá nhiều người làm thầy, tư chất kém cỏi, văn vẻ vụng về. Cái mà người học trò cần có là sự uyên bác nhưng người thầy lại có kẻ nông xoàng, tài cán thô thiển. Đạo làm thầy không vững như thế thì còn lạ gì khi thấy sĩ tử xấu hổ việc đi học?…
Tâm thật đã mất trước khi ra làm quan rồi, thì sau khi ra làm quan còn tìm sao được tiết tháo và phong độ của họ…
Từ đó Vũ Kiệt nêu ra phương hướng: (trích lược)
Thần mong bệ hạ: Đạo làm thầy phải được tuyển chọn kỹ càng. Việc nuôi dạy sĩ tử phải được nghiêm nghị đúng hướng…
Tìm nhân tài trước hết phải chú ý đến mặt đức hạnh, phế truất kẻ phù hoa…
Nếu như dùng lời gian dối để trau chuốt thì dứt khoát không dùng. Người dám nói thẳng… thì có thể thu nhận.
Giang sơn toàn thịnh
Vua Lê Thánh Tông tham khảo phép trị quốc này của Vũ Kiệt nhằm bổ sung cho bộ luật Hồng Đức, tăng thêm sức mạnh chống tham nhũng cho bộ luật này. Việc chống tham nhũng được tiến hành từ các quan to nhất đầu triều xuống đến địa phương.
Vua Lê Thánh Tông cũng ban các sắc chỉ, cụ thể như sau:
• Năm 1475, định lệnh cấm vơ vét xoay tiền trong các việc xây dựng sửa chữa, kẻ nào mượn cớ và vơ vét xoay tiền thì trị tội như luật xoay tiền.
• Năm 1478, trong sắc chỉ cho các địa phương xét quan lại trong địa hạt, người nào tham ô lười biếng thì tâu lên để định việc giáng chức.
• Năm 1487, xét quan lại thấy tham nhũng thì bãi chức sung quân ở Quảng Nam.
• Năm 1483, trong sắc chỉ ân xá của nhà vua những kẻ tham nhũng xếp cùng tội đại nghịch không được hưởng khoan hồng của nhà vua.
Như vậy, vua Lê Thánh Tông đã coi nạn quan tham ngang hàng với tội đại nghịch, những tội làm tổn hại đến nền móng nhà nước.
Chủ trương chống tham nhũng, chỉ dùng bậc hiền tài, loại trừ kẻ xu nịnh được thực hiện từ các quan to nhất đầu triều xuống dưới, khiến các quan chức vốn chỉ lo tiến thân bằng nịnh bợ không còn đất dụng võ nữa, nạn tham nhũng đang tàn phá đất nước bị đẩy lùi và dẹp bỏ.
Lịch sử cho thấy thời kỳ vua Lê Thánh Tông là thời kỳ toàn thịnh của Đại Việt, đất nước phát triển rực rỡ về mọi phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục và quân sự.
Những thành tựu trị quốc, chống tham nhũng kiệt xuất đã đưa Đại Việt trở thành quốc gia hùng mạnh bậc nhất Đông Nam Á lúc bấy giờ.
Là hiền tài của đất Việt, tên tuổi của Vũ Kiệt còn được lưu lại trên Văn Miếu Quốc Tử Giám ở Hà Nội hay Văn Miếu ở Bắc Ninh. Tài năng cùng phép trị quốc của ông được các hậu thế nhiều đời sau này truyền tụng.
Thời nay, nhiều người cho rằng xã hội và tư tưởng xưa kia là “lạc hậu”, trong khi đó, thực trạng tham nhũng lại tràn lan, và nền giáo dục cũng còn đặt nhẹ vấn đề đạo đức. Thậm chí việc bỏ tiền lo lót cho quan lại, hay việc biếu xén thầy cô để con có thành tích học tập cao lại được xem như một điều “rất đỗi bình thường”.
Nếu như áp dụng phép trị quốc của vua Lê Thánh Tông và của trạng nguyên Vũ Kiệt, thì hẳn là nhiều quốc nạn sẽ được dẹp bỏ.
ST

Người Việt dùng đại nghĩa thắng hung tàn.

Tha chết cho 10 vạn giặc Minh, Người Việt dùng đại nghĩa thắng hung tàn.
.
Lê lợi sau khi giành được chiến thắng đã tha chết cho hơn 10 vạn đội quân của triều đình phương Bắc đã từng đô hộ mình. Không chỉ thế quân dân Lê Lợi còn sửa sang đường xá, cung cấp ngựa, thuyền, lương thực để đội quân thất trận Nhà Minh xâm lược về nước.
.
Tấm lòng đại nhân đại nghĩa ấy tưởng như chỉ là chuyện hoang đường, nhưng đã được người dân Đại Việt thực hiện, khiến kẻ xâm lăng chỉ có thể cảm kích đến chảy nước mắt, dù nhục nhã thua trận vẫn chỉ có thể cúi đầu tâm phục khẩu phục. Đó chính là cái kết “đại nghĩa” và “chí nhân” mà Nguyễn Trãi nói đến trong câu thơ:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
.
Bối cảnh
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nổ ra bắt đầu từ năm 1418. Giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa, Lê Lợi cùng các nghĩa quân nhiều lần phải rút về núi Chí Linh trước sức mạnh của quân Minh.
Đến năm 1420, Nguyễn Trãi gia nhập nghĩa quân, ra mắt chủ tướng Lê Lợi với cuốn sách “Bình Ngô”, nêu những kế sách để đánh đuổi quân Minh. Được Lê Lợi tin tưởng, ông đã vạch ra kế sách chiến lược đánh quân Minh, từ đó nghĩa quân Lam Sơn giành được nhiều thắng lợi quan trọng và ngày càng lớn mạnh, hết tiến về phía Nam lại tiến ra Bắc, tiến quân đến đâu giành thắng lợi đến đó.
.
Trước tình hình này, vào tháng 9/1426, nhà Minh cử Vương Thông làm tổng binh đưa 5 vạn viện binh sang, hợp với hơn 5 vạn quân ở Giao Chỉ thành hơn 10 vạn, tiến đánh quân Lam Sơn. Quân Minh bị nghĩa quân Lam Sơn đánh bại ở Tốt Động – Chúc Động. Vương Thông thua trận phải chạy vào thành Đông Quan (tức thành Thăng Long) cố thủ rồi cho người về nước xin thêm viện binh.
.
Nguyễn Trãi nhiều lần viết thư cho Vương Thông đề nghị nghị hòa, nhưng Vương Thông chỉ đồng ý nhằm kéo dài thời gian chờ viện binh, mặt khác cho đào hào cắm chông để cố thủ. Nguyễn Trãi biết được điều này nên cho quân vây thành chặt hơn, đồng thời gửi tiếp thư cho Vương Thông nói rõ nếu muốn hàng thì quân Minh phải ra hàng ngay.
.
Biết quân Minh không hàng vì còn hy vọng quân cứu viện, Nguyễn Trãi bèn tính kế đánh bại 15 vạn viện binh của Liễu Thăng và Mộc Thạnh.
10 vạn quân của Liễu Thăng đến ải Chi Lăng thì bị phục binh xông ra đánh úp khiến bị tan rã hoàn toàn, Liễu Thăng cũng bị tử trận.
Mộc Thạnh đưa 5 vạn quân đóng ở biên giới, chần chừ chưa vội tiến quân nhằm nghe ngóng cánh quân của Liễu Thăng. Quân Lam Sơn đưa một số tù binh mang sắc thư, phù ấn của Liễu Thăng đến báo cho Mộc Thạnh biết Liễu Thăng đã tử trận.
Cánh quân của Mộc Thạnh hay tin thì kinh hoàng, phút chốc cả 5 vạn quân tan vỡ quay đầu chạy về nước. Quân Lam Sơn thừa thắng đuổi theo khiến hàng vạn quân Minh bị tiêu diệt.
15 vạn viện binh thoáng chốc đã bị diệt sạch.
.
Việc đánh thành Đông Quan lúc này là quá dễ với nghĩa quân Lam Sơn. Nhiều tướng bàn nên tấn công hạ thành, nhưng Nguyễn Trãi muốn chiêu hàng để đỡ hao tổn binh sĩ hai bên.
.
5 lần một thân một mình vào thành khuyên hàng
Để chiêu hàng Vương Thông, Nguyễn Trãi không chỉ nhiều lần viết thư khuyên nhủ, mà ông cũng đã phải 5 lần một mình vào thành Đông Quan nhằm phân tích tình hình khuyên nhủ các tướng quân Minh nên đầu hàng. Đồng thời ông cũng đảm bảo sẽ cung cấp đủ ngựa, thuyền, lương thực để toàn bộ 10 vạn quân Minh được an toàn trở về nước.
Thế nhưng quân Minh biết rằng, trong thời gian thống trị ở Giao Chỉ, họ đã gây rất nhiều nợ máu cho người dân nơi đây. Việc tha thứ cho 10 vạn quân gây bao nhiêu tội ác an toàn về nước được xem là điều không thể, nhất là các tướng chỉ huy. Vì thế mà các tướng Minh đều liều chết quyết giữ thành chứ không hàng.
.
Vương Thông một mặt trả lời sẽ xem xét nhằm giảng hòa, một mặt cho quân dò la tình hình vây thành. Quân Minh tìm ra được điểm yếu, liền đem quân bất ngờ vượt thành đánh ra để phá vây. Thế nhưng quân Lam Sơn đã chuẩn bị trước tình huống này, nên giả thua bỏ chạy. Quân Minh đuổi theo thì rơi vào trận địa mai phục, Vương Thông bị ngã ngựa suýt nữa thì bị bắt, phải chạy tháo thân trở vào thành.
Vương Thông viết thư về báo với vua Minh về việc giảng hòa với quân Lam Sơn, trong thư có đoạn sau:
Chớ tham đất một góc mà làm nhọc quân đi muôn dặm, giả sử dùng quân được như số quân đi đánh khi đầu, lại được 6, 7, 8 đại tướng như bọn Trương Phụ thì mới có thể đánh được, tuy nhiên có đánh được cũng không thể giữ được… (Đại Việt sử ký toàn thư)
 
.
Nguyễn Trãi dùng nhân nghĩa, kiên trì thuyết phục quân Minh đầu hàng, đúng như những gì ông viết trong “Bình Ngô đại cáo”:
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công
Trước sự kiễn nhẫn cùng sự chân thành của Nguyễn Trãi, lại đang lâm cảnh đường cùng, Vương Thông đồng ý nghị hòa. Ông ta liền đưa một số tướng làm con tin giao cho quân Lam Sơn. Người dân cùng các tướng sĩ đến xem đều đề nghị xin cho giết bọn chúng, nhưng Lê Lợi đáp rằng:
.
Trả thù báo oán là thường tình của mọi người, nhưng không thích giết người là bản tâm của bậc nhân đức. Vả lại, người ta đã hàng, mà mình lại giết thì là điềm xấu không gì lớn bằng. Nếu cốt để hả nỗi căm giận trong chốc lát mà mang tiếng với muôn đời là giết kẻ đã hàng, thì chi bằng tha mạng sống cho ức vạn người, để dập tắt mối chiến tranh cho đời sau, sử xanh ghi chép tiếng thơm muôn đời, há chẳng lớn lao sao? (Đại Việt sử ký toàn thư)
.
Các thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn như Lê Lợi, Nguyễn trãi cùng các tướng sĩ khác đều có thù nhà với quân Minh. Hầu hết người dân Giao Chỉ đều khổ sở dưới sự áp bức của nhà Minh. Ấy vậy mà dân tộc ta lại có thể làm ra một quyết định “đại nghĩa”: tha cho và giúp đỡ toàn bộ đội quân từng gây tội ác thấu trời xanh như vậy trở về nước.   

 
Hội thề Đông Quan, bên phải là người Việt, bên trái là người Minh. (Tranh: Trí Thức VN)
Hội thề Đông Quan
Ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi (1427), toàn bộ quân Minh ra đầu hàng, các thủ lĩnh của hai bên tham gia hội thề ở phía Nam thành Đông Quan, ngay bên bờ Nhị Hà (nay là sông Hồng).
.
Rất nhiều người nhắc lại với chủ tướng Lê Lợi về sự thống khổ mà người dân từng chịu đựng, cũng như tội ác của quân Minh đã từng gây ra, thế nhưng Lê Lợi đáp rằng:
Việc dùng binh lấy sự toàn quân là hơn cả. Nay hãy để cho lũ Vương Thông về nói với vua Minh, trả lại đất cho nước ta, không còn trở lại xâm lấn, thì ta còn cầu gì hơn nữa, hà tất phải giết hết, để kết mối thù với nước lớn. (Đại Việt thông sử)
Tại hội thề lịch sử Đông Quan, Vương Thông đại diện cho các tướng sĩ quân Minh đọc “bài văn hội thề”, thề rằng sẽ ngừng chiến mà rút quân về nước, việc rút quân về nước sẽ hoàn tất trong vòng 5 tháng, trên đường rút về không thực hiện việc cướp bóc sách nhiễu dân chúng, không tái diễn xâm lược Giao Chỉ.
Về phía nghĩa quân Lam Sơn cũng hứa cung cấp đủ ngựa, thuyền và lương thực cho hơn 10 vạn quân Minh rút về nước.
.
Kết thúc hội thề các tướng nhà Minh phải cúi đầu thực hiện đúng các cam kết mà nghĩa quân Lam Sơn đặt ra. Quân “thiên triều” cảm kích xấu hổ chảy nước mắt, dù nhục nhã nhưng phải tâm phục khẩu phục.
Lê Lợi lệnh cho các lộ ở Bắc Giang và Lạng Sơn tu sửa đường xá để quân Minh rút về nước. Quân Lam Sơn cũng cung cấp 500 thuyền và hơn 2 vạn ngựa cho quân Minh sử dụng, cũng như lương thực đầy đủ, các quan lại đô hộ của nhà Minh cũng được thả về nước sau đó. Các quân tướng nhà Minh trước khi về nước đã vô cùng cảm kích đến trước dinh Bồ Đề mà lạy tạ.
.
Sách “Đại Việt thông sử” có ghi chép rằng các tướng Minh là Phương Chính, Mã Kỳ tới dinh Bồ Đề cáo biệt Lê Lợi, ở lại chơi suốt cả buổi chiều, Lê Lợi sai sắm trâu ngựa, trướng vẽ và lễ phẩm hậu tặng.
“Đại Việt Sử ký Toàn thư” ghi chép rằng: “Tất cả đều tới dinh Bồ Đề lạy tạ mà về. Bọn Phương Chính vừa xúc động vừa hổ thẹn đến rơi nước mắt.”
.
Vương Thông nói chuyện với Lê Lợi suốt đêm rồi mới về nước, Lê Lợi cho đem trâu rượu, cờ thêu, trướng vẽ cùng các lễ vật tiễn chân rất hậu.

 
Quân Minh rút về Trung Quốc. (Tranh qua motthegioi.vn)
“Minh sử kỷ sự bản mạt” ghi chép rằng: “Vương Thông lực yếu mà phải xin hoà, Liễu Thăng lại sang rồi bị thua chết. Sau đó lại xuống chiếu sai sứ sang giao hảo và rút quân về, nhục nhã thực bằng Tân, Trịnh hội thề dưới chân thành, hổ thẹn ngang với Kính Đường cắt đất giảng hoà vậy”
.
Có người bình rằng việc tha chết cho 10 vạn quân Minh chỉ là do vua quan Đại Việt muốn yên ổn, nhưng sự thật không phải là như vậy. Trong lịch sử nước ta đã rất nhiều lần người Việt đánh bại quân xâm lược mà không hề chùn bước vì muốn yên ổn. Hơn nữa, mối thù sâu đậm do quân Minh gây ra không phải là chỉ cần mấy chữ “muốn yên ổn” là có thể xóa nhòa được.
.
Tư tưởng của Nguyễn Trãi – “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”, “đem đại nghĩa để thắng hung tàn” – đã thể hiện tấm lòng đại nghĩa của người dân Đại Việt, ghi lại một điểm sáng chói lọi trong sử Việt.